" Hiệp Định Genève 1954: bài học gì cho Bộ Chính Trị ĐCSVN
ngày nay? Bài viết đánh dấu 60 năm Hiệp Định Genève được soạn
thảo với một hi vọng nho nhỏ là chúng ta có thể học được kinh
nghiệm của quá
khứ đau buồn mà đất nước Việt Nam thân yêu đã phải trải qua.
Hiệp Định nầy và hậu quả của nó đã được trình bày từ nhiều
quan điểm khác nhau, kể cả tài liệu khá đầy đủ của Bộ Quốc
Phòng Mỹ Bài viết đánh dấu 60 năm Hiệp Định Genève được soạn
thảo với một hi vọng nho nhỏ là chúng ta có thể học được kinh
nghiệm của quá khứ đau buồn mà đất nước Việt Nam thân yêu đã
phải trải qua. Hiệp Định nầy và hậu quả của nó đã được
trình bày từ nhiều quan điểm khác nhau, kể cả tài liệu khá
đầy đủ của Bộ Quốc Phòng Mỹ, The Pentagon Papers (1971). Từ năm
2004, một số tài liệu do Bộ Ngoại Giao Bắc Kinh phổ biến giúp
chúng ta hiểu thêm về quan điểm và mục tiêu
chiến lược của hai cường quốc cộng sản Liên Xô và Trung Quốc,
đặc biệt là Trung Quốc, trong vấn đề Việt Nam (Đông Dương) và
thân phận của Việt Minh / Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH)
trong quan hệ với hai đồng minh bảo trợ. Tài liệu Bộ Ngoại Giao
Bắc Kinh xác nhận điều mà chúng ta đã suy diễn là VNDCCH -
cũng như Quốc Gia Việt Nam / Việt Nam Cộng Hòa (QGVN/VNCH) - đã
bị chi phối quá nhiều bởi chính trị đại cường và do đó đã
không theo đuổi được chính sách độc lập. Bài viết nầy phần
lớn nhìn vào sách lược của Bắc Kinh tại Hội Nghị Genève trong
nỗ lực củng cố và mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc như là
một đại cường đang bước chân vào diễn đàn quốc tế. Có
thể nói, đây là sách lược mà Bắc Kinh theo đuổi liên tục trong
60 năm qua, kể cả trong vấn đề tranh chấp Biển Đông với Việt
Nam hiện nay. Bối Cảnh Hiệp Định Genève 1954 giữ vai trò quan
trọng trong lịch sử Việt Nam thời hậu bán thế kỷ thứ 20 khi
mà cuộc chiến tranh lạnh đang ở mức độ cao. Nhưng lý do dẫn
đến sự chia cắt đất nước Việt Nam vào ngày 21 tháng 7 năm 1954
bắt nguồn từ những biến cố lịch sử trong và sau Thế Chiến
Thứ Hai, đặc biệt là tại Hội Nghị Potsdam. Sau khi đã đánh bại
Đức Quốc Xã và trước khi Nhựt Bản đầu hàng, lãnh đạo đồng
minh gồm Hoa Kỳ, Anh Quốc và Liên Xô đã họp Hội Nghị tại
Potsdam từ ngày 17 tháng 7 đến ngày 2 tháng 8 năm 1945 để qui
định
việc phân chia quyền lực và vùng ảnh hưởng trong thời hậu
chiến. Việt Nam không phải là một vấn đề lớn trong chương trình
nghị sự. Phe đồng minh quyết định trao quyền giải giới quân
đội Nhựt Bản từ vĩ tuyến thứ 16 trở ra Bắc cho Trung Hoa Dân
Quốc (quân đội Tưởng Giới Thạch) và từ vĩ tuyến thứ 16 (từ
phía nam Đà Nẳng) trở vào Nam cho Anh Quốc. Cũng tại Hội Nghị
nầy, phe đồng minh đã chấp nhận lời yêu cầu của đại diện nước
Pháp vừa được giải phóng, để Pháp có thể tiếp thu trở lại
thuộc địa Đông Dương. Đây là một quyết định tai hại cho Việt Nam
và đi ngược lại trào lưu dân tộc tự quyết trong vùng Đông Nam
Á. Tướng Charles de Gaulle, được coi là anh hùng tranh
đấu cho nền tự do của nước Pháp, nhưng trong vấn đề Đông Dương,
Tướng de Gaulle là một tên thực dân không hơn không kém. Mặc dầu
một hiệp ước sơ bộ được ký kết ngày 06.03.1946 với chính
quyền Hồ Chí Minh, cuộc chiến Việt-Pháp đã không thể tránh
được và trở nên khốc liệt hơn kể từ cuối năm 1949, sau khi Mao
Trạch Đông chiếm Bắc Kinh và thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung
Hoa (Trung Quốc). Khối cộng sản (Liên Xô và Đông Âu) - và đặc
biệt là Trung Quốc đã trở thành hậu phương lớn tiếp viện ồ
ạt chiến cụ, và gởi cố vấn tham chiến tại Việt Nam. Năm 1952,
Đại tướng Dwight D. Eisenhower đắc cử tổng thống Mỹ và vào
giữa năm 1953, Washington ủng hộ Kế hoạch Navarre của Pháp
nhằm thực hiện chiến lược mới và xúc tiến việc thành lập
quân đội QGVN. Trong kế hoạch mới nầy, Điện Biên Phủ, một tỉnh
lẻ tại vùng biên giới Lào-Việt được chiếm lại và tạo dựng
thành một căn cứ quân sự với một lực lượng quân đội Liên Hiệp
Pháp khoảng 10 ngàn người. Cũng vào giữa năm1953, chiến tranh
Triều Tiên (1950-1953) tạm thời được ngưng bắn (armistice) chính
thức vào ngày 27 tháng 7. Phương thức ngưng bắn nầy được coi là
có thể áp dụng tại Đông Dương. Có lẽ vì thế mà vào ngày
25.01.1954, tại Berlin, Hội Nghị Ngoại trưởng Tứ Cường (Mỹ, Anh,
Pháp và Liên Xô) bày tỏ ý định triệu tập một hội nghị về
Triều Tiên và Đông Dương tại Genève vào ngày 26 tháng 4
cùng năm. Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản Liên Xô gởi mật điện
yêu cầu Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc thông báo và
khuyến khích VNDCCH tham dự [1]. Cũng theo mật điện nầy, Liên Xô
tin rằng QGVN, Lào và Cao Miên sẽ đồng ý tham dự. Mật điện nầy
không nói lý do tại sao Liên Xô tin như vậy, nhưng một chi tiết
ít khi được nhắc đến là Quốc Trưởng Bảo Đại đã cử cựu Thủ
tướng Nguyễn Văn Tâm tham dự Hội Nghị Berlin với tư cách quan
sát viên [2]. <div style="width:260px;" class="image-right
captioned"> <div style="width:260px;"> Follow the link below to
view story images
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/60th-anni-genev-agreem-07212014113041.html/hoi-nghi-geneve-260.jpg/image"
<div class="image-caption" style="width:260px;">Đại biểu các nước
đến dự hội nghị Genève (Thụy Sỹ) bàn về khôi phục hòa bình tại Triều
Tiên và Đông Dương, tháng 4/1954. Theo một chiến lược cố hữu ‘vừa
đánh vừa đàm’ mà Chu Ân Lai đề cập trong Bản Nhận Định và Đề
Nghị trình Ủy Ban Trung Ương trước khi Hội Nghị Genève bắt đầu,
và để tạo thế mạnh chính trị trước hoặc trong khi Hội Nghị
Genève được triệu tập, Việt Minh tập trung một lực lượng hùng
hậu nhằm bao vây Điện Biên Phủ. Vào tháng 3 năm 1954, tương quan
quân
số đôi bên là 50 ngàn chống 10 ngàn, tức là Tướng Võ Nguyên
Giáp, dưới sự cố vấn của Đại Tướng Trung Cộng Trần Canh [3],
có ưu thế gấp 5 lần nhiều hơn. Ngày 07.05.1954, Điện Biên Phủ
thất thủ và tạo một ảnh hưởng chính trị lớn tại Paris vượt
xa giá trị quân sự của tỉnh lẻ nầy. Bộ đội Việt Minh thiệt
hại khoảng 8 000 nhân mạng so với khoảng 1 500 của quân đội Liên
Hiệp Pháp. Bảo Đại nói rằng sự thất thủ của Điện Biên Phủ
chẳng phải là một tai họa chiến lược gì [4]. Nhưng mục tiêu
của Việt Minh không phải, hoặc không chỉ là quân sự – mà là
ảnh hưởng chính trị tại các thủ đô phương Tây. Mười bốn năm
sau, Hà Nội đã mở cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968 tại
VNCH và đã thất bại nặng nề về mặt quân sự, nhưng lại chiến
thắng về mặt chính trị tại Washington, dẫn đến Hòa Đàm Paris
sau đó. Một ngày sau khi Điện Biên Phủ thất thủ, Hội Nghị
Genève được khai mạc để thảo luận vấn đề Đông Dương (Hội Nghị
đã bắt đầu từ 29 tháng 4, để thảo luận vấn đề Triều Tiên) Sự
Kiện: Hội Nghị Genève về Đông Dương được triệu tập ngày
08.05.1954 và kết thúc vào quá nửa đêm ngày 20.07.1954 tức là
ngày 21.07.1954. Đồng Chủ tịch Hội Nghị là Anh Quốc và Liên Xô
và thành phần tham dự gồm: Anh Quốc / United Kingdom: Anthony
Eden, Bộ trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ / United States: General <div
class="image-caption" style="width:260px;">Vĩ tuyến 17 – Cầu Hiền
Lương – Sông
Bến Hải (Giới tuyến tạm thời chia cắt 2 miền Nam – Bắc (1954-1974)
Trong thành phần nầy, Việt Nam là nước duy nhất có hai phái
đoàn đại diện cho hai chính phủ thù địch là QGVN và VNDCCH.
Pathet Lào và cộng sản Khmer, mặc dầu được phe cộng sản (Liên
Xô, Trung Quốc và Việt Minh) ủng hộ, nhưng vẫn không được mời
tham dự Hội Nghị. Thế nhưng, không phải vì thế mà họ bị bỏ
quên, vì Molotov, Chu Ân Lai và Phạm Văn Đồng lúc nào cũng nêu
vai trò của phe cộng sản tại Ai Lao và Cao Miên với đòi hỏi là
Hội Nghị phải giải quyết chung vấn đề cho cả 3 nước Đông
Dương. Hai phái đoàn Ai Lao và Cao Miên lập luận rằng vấn đề Ai
Lao và Cao Miên khác với vấn đề Việt Nam, nên cần có giải pháp
riêng. Tuy
lập trường nầy được phe phương Tây ủng hộ, sau cùng quan điểm
của phe cộng sản được chấp nhận. Việt Nam có 3 trưởng phái
đoàn liên tiếp, vì các thay đổi chính phủ tại Sài Gòn. Giáo
sư Nguyễn Quốc Định là Bộ trưởng Ngoại Giao trong chính phủ
Bửu Lộc (11.01 – 16.06.1954) và Ông Nguyễn Đắc Khê cũng là Bộ
trưởng (phụ trách vấn đề dân chủ hoá) trong chính phủ Bửu
Lộc. Còn Bác sĩ Trần Văn Đỗ là Bộ trưởng Ngoại Giao trong
chính phủ Ngô Đình Diệm đầu tiên và thứ nhì (16.06.1954 –
23.10.1955). Sau cuộc trưng cầu dân ý tháng 10 năm 1955, Ông Ngô
Đình Diệm trở thành Tổng thống VNCH [5]. Trong thời gian Hội
Nghị, Pháp cũng có thay đổi chính phủ: Chính phủ của Thủ
tướng Joseph Laniel mà
Bộ trưởng Ngoại Giao là Ông Georges Bidault bị phe nhóm trung tả
của Ông Pierre Mendès-France đánh bại tại Quốc Hội. Ngày
17.06.1954, Ông Mendès-France trở thành Thủ tướng kiêm Bộ Trưởng
Ngoại Giao và thay thế Ông Bidault tại Hội Nghị Genève. Đây là
biến chuyển chính trị vô cùng tai hại cho QGVN, như chúng ta sẽ
phân tích ở phần sau của bài nầy. Hội nghị Genève thảo luận
hai vấn đề chính là Triều Tiên và Đông Dương, nhưng đã dành
phần lớn thì giờ cho Đông Dương hơn, vì Triều Tiên đã được ngưng
bắn trong khi chiến cuộc vẫn tiếp diễn tại Việt Nam trong suốt
thời gian Hội Nghị. Bài nầy chỉ chú trọng vào vấn đề Việt
Nam tại Genève mà thôi. Ngoài diễn đàn chính tại Genève, đại
diện quân
sự đôi bên còn nhóm họp tại Trung Giã (Tỉnh Phúc Yên), từ ngày
4 đến 27 tháng 7 để bàn thảo về những vấn đề kỹ thuật như
việc hạn chế hoạt động quân sự, rút quân, tập kết, trao đổi tù binh vv…
Riêng về Việt Nam, Hội Nghị kết thúc với một Hiệp Định
(Accords sur la cessation des hostilités en Indochine, Accords de
Genève 1954 (20 juillet 1954) và Một Lời Tuyên Bố Sau Cùng (The
Final Declaration of The Geneva Conference: On Restoring Peace in
Indochina, July 21, 1954). Hiệp Định gồm 47 điều với hai bản văn
chính thức bằng tiếng Pháp và tiếng Việt được ký bởi Thiếu
tướng Henri Delteil, đại diện Bộ Tổng Tư Lệnh Quân Đội Liên Hiệp
Pháp tại Đông Dương và Ông Tạ Quang Bửu, Thứ trưởng Quốc Phòng
của VNDCCH. Một vấn
đề còn tranh cãi Sáu mươi năm đã trôi qua, nhưng vấn đề tồn
đọng và còn được tranh cãi là hiệu lực và tính cách ràng
buộc của Lời Tuyên Bố Sau Cùng. Văn kiện nầy chỉ được vị đồng
Chủ tịch Anthony Eden đọc lên trước khi Hội Nghị bế mạc [6] và
không ai ký tên vào bản văn cả. Hoa Kỳ không phải là thành viên
kết ước, nhưng tuyên bố tôn trọng Hiệp Định. QGVN từ chối ký
tên và Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ phát biểu rõ rệt là Việt Nam
chống đối hoàn toàn giải pháp chia cắt đất nước. Vì vậy, mặc
dầu Lời Tuyên Bố của Trưởng Phái Đoàn Trần Văn Đỗ không được
chính thức ghi vào văn bản, nhưng không ai có thể coi là QGVN
/VNCH chấp nhận kết quả của Hội Nghị Genève, kể
cả Lời Tuyên Bố Sau Cùng. Tại Thủ đô Sài Gòn, Thủ tướng Ngô
Đình Diệm lên tiếng chống đối mạnh mẽ việc đặt nửa phần đất
nước dưới chế độ cộng sản và cờ rủ được treo khắp nơi trên
lãnh thổ Việt Nam từ phía nam Sông Bến Hải, như là ngày tang
cho tổ quốc. Trong cốt lõi, Lời Tuyên Bố Sau Cùng gồm hai điểm
quan trọng. Thứ nhất là vĩ tuyến 17 là ‘ranh giới quân sự tạm
thời’ chớ không phải là ‘một biên giới phân định về chính trị hay
lãnh thổ’(đoạn 6). Và thứ hai là tổng tuyển cử dự trù được tổ
chức 2 năm sau, tức là vào tháng 7 năm 1956, để thống nhất
Việt Nam (đoạn 7). <div style="width:170px;" class="image-right
captioned"> <div style="width:170px;"> Follow the link below to
view story images http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/60th-anni-genev-agreem-07212014113041.html/hoi-nghi-geneve-170.jpg/image"
<div class="image-caption" style="width:170px;">Hội Nghị Genève
1954 Lời Tuyên Bố Sau Cùng là một văn kiện chính trị, bày tỏ
ý muốn của phe cộng sản (Liên Xô, Trung Quốc và VNDCCH) và được
Anh và Pháp đồng ý, nhưng ước muốn tự nó không thể có hiệu
lực cưỡng hành như một hiệp ước. Phe cộng sản và một số tác
giả phương Tây bằng vào các lời cam kết tôn trọng Hiệp Định
Genève mà kết luận rằng Lời Tuyên Bố Sau Cùng là một phần
của Hiệp Định và có tính cách ràng buộc.
VNCH, thể chế chính trị kế thừa QGVN, không đồng ý với quan
điểm nầy. Trên nguyên tắc, Tổng thống Ngô Đình Diệm không chống
đối một cuộc tổng tuyển cử tự do và được Liên Hiệp Quốc giám
sát. Không ai – kể cả những chính phủ và các tác giả ủng hộ
phe cộng sản – có thể lập luận rằng bầu cử tự do có thể
được tổ chức tại Bắc Việt trong năm 1956. Đấy là một chế độ
độc tài toàn trị, do guồng máy công an kiểm soát chặt chẽ
từng nhà bằng phương thức hộ khẩu, mô phỏng theo chế độ Mao
Trạch Đông. Trái lại, Nam Việt Nam là một chế độ tự do, tuy chưa
hoàn hảo. Người ta có khuynh hướng so sánh chế độ tự do tại
VNCH với chế độ dân chủ Tây Âu và Bắc
Mỹ, trong khi vì hoàn cảnh lịch sử, VNCH đáng lẽ phải được so
sánh với các nước vừa được độc lập sau Thế Chiến Thứ Hai như
Indonesia và Philippines – là những quốc gia non trẻ tập tễnh
trên con đường dân chủ đầy chông gai. Điều trớ trêu là Ông Hồ
Chí Minh không bị chỉ trích vì chế độ độc tài toàn trị ở
Miền Bắc, mà Ông Ngô Đình Diệm lại bị đả kích vì chế độ tự
do tại Miền Nam ‘thiếu dân chủ’. Điển hình cho khuynh hướng nầy
là tác giả Joseph Buttinger, thoạt đầu là một người bạn nhưng
sau đó trở thành một người chỉ trích dữ dội Ông Ngô Đình Diệm
[7]. Người ta cũng thường trích dẫn nhận xét của Tổng thống
Dwight D. Eisenhower, theo đó Ông Hồ Chí Minh có thể
thắng trong một cuộc bầu cử tự do. Ngoài lý do nhận xét nầy
thường được trích dẫn bên ngoài văn mạch (out of context) khi
Tổng thống Mỹ so sánh Ông Hồ Chí Minh với Cựu Hoàng Bảo Đại,
nhận xét nầy còn phải được hiểu, trong bối cảnh thực tế của
năm 1956 khi Miền Bắc đông dân hơn Miền Nam. Bởi vậy, cho dầu 100%
dân chúng Miền Nam ủng hộ Ông Ngô Đình Diệm – một scenario không
thể xảy ra bắt cứ tại đâu bên ngoài khối cộng sản – Ông Hồ
Chí Minh vẫn có thể đạt được đa số [8]. Còn việc giám sát
của Liên Hiệp Quốc thì sao? Lập trường xuyên suốt của QGVN /
VNCH là Liên Hiệp Quốc phải có vai trò chính trong việc giám
sát cuộc đình chiến cũng như trong vấn đề tổ chức bầu
cử tự do. Tại sao phe cộng sản tại Hội Nghị Genève cũng như
sau Hội Nghị luôn luôn từ chối sự giám sát của Liên Hiệp Quốc
trong vấn đề chấm dứt chiến tranh và vãn hồi hòa bình tại
Viêt Nam? Trước kia, chúng ta có thể suy đoán, nhưng ngày nay
chúng ta có thể tìm được lý do trong số 80 công điện và phúc
trình mật và tối mật mà Chu Ân Lai gởi về Mao Trạch Đông, Lưu
Thiếu Kỳ và Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc và được
Bộ Ngoại Giao Bắc Kinh phổ biến hạn chế hồi năm 2004. Bằng
chứng cũng có thể tìm thấy trong các nhật ký của Molotov trong
số 8 văn kiện mật mà Moscow đã phổ biến. Phe cộng sản – cá
biệt là Bắc Kinh – rất e ngại vấn đề Việt Nam được quốc tế
hóa mà Bắc Kinh coi là con đường dẫn đến sự tham dự của Hoa
Kỳ [9]. Liên Xô còn có thêm một lý do khác để chống đối sự
tham dự của Liên Hiệp Quốc. Trong vấn đề Triều Tiên, Moscow đã
không sử dụng quyền phủ quyết khi Hội Đồng Bảo An quyết nghị
can thiệp, dẫn đến sự tham chiến quốc tế do Mỹ lãnh đạo trong
cuộc chiến Triều Tiên (1950 - 1953). Trong vấn đề giám sát của
Liên Hiệp Quốc, Ông Hồ Chí Minh (mà các văn kiện mật và tối
mật của Bắc Kinh và Moscow thường gọi với bí danh là “Comrade
Ding / Đồng chí Ding”) tuân theo đường lối của hai đàn anh cộng
sản. Ngày nay, trong bối cảnh khác và tác nhân tranh chấp khác –
tức là giữa Trung Quốc và Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam, hoặc với Philippines, Bắc Kinh cũng chống đối việc
quốc tế hóa vấn đề Biển Đông, dầu là dưới hình thức trước
Tòa Án Quốc Tế hay dưới hình thức thương thuyết đa phương, mà
mục đích là để ngăn ngừa sự tham dự của Mỹ. Một lập luận
khác cũng thường được nêu lên là vì Pháp chấp nhận thi hành
Hiệp Định Genève kể cả Lời Tuyên Bố Sau Cùng, nên QGVN / VNCH
cũng bị ràng buộc và phải thi hành. Cơ sở của lập luận nầy
là (a) QGVN chưa hoàn toàn độc lập trong Liên Hiệp Pháp, và (b)
Pháp hành xử thẩm quyền ngoại giao thay cho QGVN tại Hội Nghị
Genève. Luận điệu nầy không đúng. Việt Nam là một quốc gia độc
lập và thống nhất Nam Bắc Trung theo Bản Tuyên Bố Chung
Việt-Pháp tại Vịnh Hạ Long ngày 05.06.1948 và được chính thức
xác nhận bởi Tổng Thống Pháp Vincent Auriol ngày 08.06.1949.
Trên cơ sở hai văn bản nầy, thì QGVN quả thật chưa hoàn toàn
độc lập về phương diện tài chánh và ngoại giao. Thế nhưng,
giới hạn cuối cùng nầy đã được tháo gỡ bởi Hiệp Ước
Việt-Pháp mà Thủ tướng Bửu Lộc và Thủ tướng Joseph Laniel đã
ký ngày 04.06.1954. Tại Hội Nghị Genève, Việt Nam là một quốc
gia hoàn toàn độc lập và được ít nhất là 35 quốc gia khác
trên thế giới công nhận từ năm 1949 đến năm 1955 so với 26 quốc
gia có quan hệ ngoại giao với Trung Quốc trong cùng khoảng thời
gian ấy [10]. Quan điểm của Sài Gòn là VNCH không bị ràng buộc
bởi Lời
Tuyên Bố Sau Cùng là có cơ sở. Phân Tích: chính trị đại cường
‘Chính trị đại cường’ hay chính trị nước lớn là một nhóm
chữ đơn giản nhưng không thể hiện được sự phức tạp trong quan
hệ Anh-Pháp-Mỹ từ phía ‘đồng minh’ phương Tây. Từ phía cộng
sản, quan hệ giữa Bắc Kinh và Moscow chưa có gì gây cấn và
được coi là rất đầm ấm, vào thời điểm 1954 vì Trung Quốc, chỉ
sau 5 năm thành lập, còn phải học hỏi nhiều từ Liên Xô về mặt
ngoại giao trên diễn đàn quốc tế. Nhưng không phải vì sự khác
biệt trong nội bộ cường quốc phương Tây và trong nội bộ cường
quốc cộng sản mà hai phía đối nghịch Việt Nam không phải đối
diện với nhiều khó khăn tại Hội Nghị. Đáng
ngạc nhiên là những khó khăn nầy lại giống nhau, tức là những
khó khăn với chính ‘đồng minh’của mình. Dị biệt giữa
Washington, London và Paris sâu đậm và phức tạp hơn, nên QGVN đã
không thể vượt qua những trở lực tại Hội Nghị và sau cùng đã
phải chịu thất bại nặng nề hơn là VNDCCH [11]. Khởi thủy, lập
trường của hai phe đối nghịch Việt Nam đều chống đối giải pháp
chia cắt đất nước. Thế nhưng trong khi QGVN nhất quán duy trì
lập trường bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ, thì VNDCCH đã không
cưỡng lại được sức ép của Trung Quốc và Liên Xô nên phải chấp
nhận giải pháp chia đôi. Chia đôi Việt Nam là giải pháp mà
Moscow và Bắc Kinh chủ trương rất sớm từ đầu tháng 3 năm 1954.
Lần đầu tiên bước vào sân khấu chính trị thế giới nên Bắc
Kinh đã chuẩn bị rất kỹ. Chính Thủ tướng Chu Ân Lai đã soạn
thảo chính sách chỉ đạo mà Ban Bí Thư Ủy Ban Trung Ương đã cứu
xét và chấp thuận ngày 02.03.1954 [12]. Theo tài liệu quan
trọng nầy, Trung Quốc đánh giá cao thành công của Liên Xô trong
việc vận động triệu tập Hội Nghị Genève và coi việc tham dự
của Trung Quốc là một bước tiến lớn, mặc dầu các cường quốc
‘phản động’ không tin là Hội Nghị có thể đạt kết quả gì. Bởi
vậy, chính sách của Trung Quốc là phải tham dự̣ để cải thiện
thể đứng ngoại giao và phá vỡ âm mưu gây chiến của ‘đế quốc
Mỹ’. Trung Quốc phải nỗ lực đạt kết quả, dầu là
kết quả giới hạn hoặc tạm thời, để mở đường cho việc giải
quyết tranh chấp bởi các đại cường. Trung Quốc đã tự coi mình
là một đại cường. Đối với Đông Dương, Trung Quốc phải cố gắng
để hội nghị không thất bại, và tham dự để, nếu cần, tạo ra
tình trạng vừa đánh vừa đàm (“negotiating while fighting”) nhằm
gây khó khăn cho Pháp và tạo mâu thuẩn giữa Pháp và Mỹ. Một
cách cụ thể, chính sách đã nói rõ là ‘ngưng bắn tại chỗ’
không tốt bằng chia đôi Nam/Bắc có thể là tại vĩ tuyến thứ 16.
Chu Ân Lai còn nói thêm là Trung Quốc phải chuẩn bị thảo luận
các giải pháp hợp tác kinh tế thương mại để bẻ gẫy phong tỏa
của Mỹ - và bên lề hội nghị, cải thiện bang
giao song phương với Anh, Pháp và Canada. Trong bản văn nầy, Chu
Ân Lai đã nhận xét chính xác là các cường quốc phương Tây chia
rẽ và có nhiều khó khăn chính trị nội bộ. Sự phối hợp giữa
phe cộng sản chặt chẽ hơn là phe phương Tây. Ngày 22.04.1954, tại
Moscow, Chu Ân Lai thảo luận với Đệ Nhất Bí Thư Nikita Khrushchev
và Thủ tướng George M. Malenkov và Liên Xô đồng ý với chính
sách của Chu Ân Lai. Khrushchev nói chính sách nầy phải được
bảo mật. Khrushchev cho biết là đã tiếp Đồng chí Ding (bí danh
của Hồ Chí Minh) và cho biết yêu cầu của Hồ Chí Minh có thể
được thỏa mãn (satisfied), nhưng không nói rõ hoặc mật điện
không ghi rõ là yêu cầu gì. Mật điện nói thêm là Hồ Chí Minh
ghé lại Bắc
Kinh để gặp Mao Trạch Đông trên đường về [13]. Một phiên họp
quan trọng khác được tổ chức tại Liễu Châu / Liuzhou, Trung
Quốc, ngày 04.07.1954 giữa Chu Ân Lai và các phụ tá với Hồ Chí
Minh và Võ Nguyên Giáp, nhưng nội dung không được tiết lộ trong
mật điện [14]. Bề ngoài, Chu Ân Lai có vẻ quan tâm đến uy tín
của VNDCCH. Ngoài các phiên họp đặc biệt với Hồ Chí Minh, Chu
Ân Lai không bỏ lỡ cơ hội than phiền với các trưởng phái đoàn
phương Tây về việc mà ông gọi là “bất bình đẳng” (inequality)
trong việc phương Tây phân biệt đối xử giữa QGVN và VNDCCH. Trong
cuộc thảo luận với Ngoại trưởng Anthony Eden ngày 14.05.1954, Chu
Ân Lai than phiền là Pháp đã không thèm trả lời đề nghị chính
trị
của Phạm Văn Đồng, vì Pháp chỉ coi QGVN là đại diện cho toàn
thể Việt Nam. Theo lời Chu Ân Lai, người đòi hỏi quá nhiều không
phải là Hồ Chí Minh mà là Bảo Đại, vì Bảo Đại không những
coi mình là lãnh tụ duy nhất của Việt Nam mà còn đòi hỏi Liên
Hiệp Quốc bảo đảm Bảo Đại là lãnh tụ duy nhất sau cuộc tổng
tuyển cử – một đề nghị mà Moscow và Bắc Kinh đều không chấp
nhận. Tất nhiên, Chu Ân Lai cũng không quên đòi hỏi cho chính
mình là Trung Quốc xứng đáng được có qui chế của một đại
cường [15]. Cũng theo Chu Ân Lai, Ngoại trưởng Georges Bidault chẳng
những không công nhận Việt Minh mà còn coi họ là một ‘lực
lượng phản loạn’ [16]. Thật vậy, nếu chúng ta có thể chia Hội
Nghị Genève làm hai giai đoạn trước và sau ngày 17.06.1954, thì
vị thế của phái đoàn QGVN trên chân hẳn phái đoàn VNDCCH trong
giai đoạn đầu. Mặc dầu có sự nghi kỵ và khác biệt quan điểm
giữa Anh-Pháp-Mỹ, Mỹ và đặc biệt là Pháp ủng hộ QGVN mạnh
mẽ. Lập trường sơ khởi của Thủ tướng Joseph Laniel và Ngoại
trưởng Georges Bidault không khác gì lập trường của QGVN. Thủ
tướng Laniel đã đặt 5 điều kiện ngưng bắn là quân cộng sản
phải rút khỏi Miên và Lào, thiết lập một vùng phi quân sự tại
Đồng bằng Sông Hồng, di chuyển quân cộng sản tại Việt Nam vào
vùng chờ đợi định trước, quân Việt Minh phải rút khỏi Nam Việt
và bảo đảm ngăn cấm mọi tăng viện từ bên ngoài [17]. Thế đứng
của QGVN sụp đổ cùng với sự sụp đổ của chính phủ Laniel.
Ngày 17.06.1954, tân Thủ tướng thiên tả Pierre Mendès-France tuyên
bố trước Quốc Hội Pháp rằng điều đình ôn hòa có thể̉ thực
hiện được và ngưng bắn có thể đạt được. Tân Thủ tướng kiêm
Ngoại trưởng Pháp tự đặt cho mình một thời hạn phải đem lại
kết quả là ngày 20.07.1954. Bảo Đại coi đây là lời tuyên bố
“lạ lùng” [18], nhưng quan trọng hơn là phái đoàn QGVN tại
Genève bị cô lập hoàn toàn kể từ thời điểm nầy. Vài ngày
sau, Chu Ân Lai và Mendès-France gặp nhau lần đầu tiên tại Đại
Sứ quán Pháp ở Bern, Thụy Sĩ. Theo phúc trình của Chu Ân Lai
ngày 23.06.1954, Mendès- France đã nói rằng nhìn chung, mục tiêu
của Trung Quốc
và Pháp không có nhiều dị biệt về nguyên tắc. Mendès-France
đồng ý với Chu Ân Lai về giải pháp 2 bước: đình chiến về quân
sự và tiếp theo sau là giải pháp chính trị. Mendès-France cũng
đồng ý với Chu Ân Lai là Pháp sẽ không để Mỹ lập căn cứ quân
sự trong vùng [19]. Sự rạn nứt giữa Pháp và Mỹ được xác
nhận. Trung Quốc rất lo ngại trước nguồn tin Mỹ thảo luận
thành lập tổ chức Liên Phòng Đông Nam Á SEATO mà Chu Ân Lai coi
như là một đe dọa cho chính Trung Quốc. Trong cuộc thảo luận
nầy, Chu Ân Lai cũng cho biết là Trung Quốc thúc giục VNDCCH
tiếp xúc với phái đoàn Pháp và phái đoàn QGVN và yêu cầu
Pháp cũng có đề nghị ngược lại với Bảo Đại. Chu Ân Lai tiếp
tục lo ngại về
khả năng Mỹ thiết lập căn cứ quân sự tại Đông Nam Á và nêu
vấn đề nầy với Anthony Eden và Mendès-France. Eden giải thích
rằng SEATO, nếu được thành lập, chỉ là một liên minh phòng thủ
(defensive) trong khi đó Mendès-France nhắc lại quan điểm của
Pháp là không có kế hoạch thiết lập căn cứ Mỹ trong vùng [20].
Thời hạn 20.07.1954 gần kề nên Mendès-France nỗ lực thu hẹp dị
biệt lập trường giữa hai bên. Các đại cường đã đồng ý là thành viên
Uỷ Hội Kiểm Soát Đình Chiến bao gồm các nước Ấn Độ, Canada và Ba Lan.
Vấn đề còn lại là Việt Nam sẽ bị chia cắt tại đâu và tổng
tuyển cử được ấn định lúc nào? Không khác chi các chuyến ‘đi
đêm’ giữa Henry Kissinger và Lê Đức Thọ trong thời gian
Hòa Đàm Paris vào đầu thập niên 1970, Pháp, Anh, Liên Xô và
Trung Quốc cùng đi đêm với nhau mà phái đoàn QGVN không biết và
có lẽ phái đoàn VNDCCH cũng không biết rõ [21]. Phái đoàn QGVN
chỉ nhận được tin tức đã chậm mà còn không đầy đủ, do phái
đoàn Mỹ chuyển lại. Tuy vậy, Trưởng phái đoàn Trần Văn Đỗ
cũng gặp được Chu Ân Lai, do sự giới thiệu của phái đoàn Pháp.
Một ngày trước khi Hội Nghị kết thúc, Bác sĩ Trần Văn Đỗ lên
tiếng cực lực bác bỏ phát biểu của Liên Xô và của Pháp khi
cả hai cường quốc nầy đề cập đến sự chia đôi lãnh thổ Việt
Nam [22]. Trong khi đó, trái với lập trường nguyên thủy, VNDCCH
chấp nhận giải pháp chia đôi. Họ đã từng đề nghị một
nơi nào đó giữa vĩ tuyến 13 và 14, nhưng trước sức ép của
Liên Xô và Trung Quốc, họ hi vọng đó là vĩ tuyến thứ 16, trong
khi Pháp hãy còn đòi hỏi vĩ tuyến thứ 18. Mendès-France nói
rằng Pháp không thể chấp nhận vĩ tuyến 16 vì Pháp không thể
để cố đô Huế lọt vào tay cộng sản. Tài liệu Liên Xô cũng cho
thấy Moscow chấp nhận vĩ tuyến16 rất sớm, từ đầu tháng 3 năm
1954. Thế nhưng Molotov vẫn bênh vực đề nghị vĩ tuyến 13/14 của
VNDCCH như là một chiến thuật thương thuyết để sau nầy có cơ
hội trao đổi “nhượng bộ”. Cũng theo chiến thuật thương thuyết
nầy, Moscow đã ủng hộ thời hạn tổ chức tổng tuyển cử mà
VNDCCH muốn đạt được là trong vòng 6 tháng sau khi ngưng
chiến. Do sức ép của Liên Xô và Trung Quốc – đặc biệt là Trung
Quốc vì Bắc Kinh không muốn Hội Nghị thất bại và Bắc Kinh
đang lo Mỹ can thiệp - VNDCCH phải từ bỏ vĩ tuyến 13/14 và phải
chấp nhận tổng tuyển cử vào tháng 7 năm 1956 [23]. Trong phiên
họp ngày 20.07.1954 giữa Chu Ân Lai, Mendès-France và Eden,
Mendès-France đề nghị giải pháp dung hòa là vĩ tuyến 17. Phạm
Văn Đồng không trả lời [24]. Số phận Việt Nam đã an bài. Tạm
Kết Chúng ta không thể thay đổi lịch sử, nhưng diễn tiến lịch
sử tại Hội Nghị Genève 1954 có thể cho ta bài học gi? Trái
với luận điệu tuyên truyền “môi hở răng lạnh” mà cả Bắc Kinh
và Hà Nội đều đã sử dụng, Trung Quốc giúp đỡ phe cộng sản
tại Việt Nam
trước và sau năm 1954 là vì quyền lợi của Trung Quốc. Trung
Quốc coi Hội Nghị Genève là bàn đạp để Trung Quốc xác định
vai trò đại cường trên diễn đàn quốc tế. Trung Quốc không muốn
Hội Nghị thất bại, vì e ngại sự thất bại ấy có thể dẫn đến
sự can thiệp quân sự của Mỹ mà Trung Quốc coi là mối đe dọa
cho chính Trung Quốc. Đây là một tầm nhìn chiến lược mà Bắc
Kinh không thay đổi trong 60 năm qua. Trong chiến lược nầy, quyền
lợi của Việt Nam là thứ yếu. Nhân cuộc chiến biên giới
Việt-Trung 1979, Hà Nội lần đầu tiên và chỉ một lần thôi, dám
lên tiếng cáo buộc Trung Quốc đã phản bội VNDCCH tại Hội Nghị
Genève [25]. Trên 60 năm qua, Việt Nam Thống Nhất hoặc Việt Nam
chia đôi đều đã là nạn nhân của ván bài chính trị đại cường.
Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam sẽ tiếp tục vướng mắc
trong chính trị nước lớn, nếu Hà Nội tiếp tục gắn bó trong
mối quan hệ đặc biệt và bất bình đẳng với Bắc Kinh như được
diễn đạt dưới chiêu bài 16 chữ vàng và 4 tốt. Trong thế giới
đa cực ngày nay, quyền lợi lâu dài của tổ quốc Việt Nam là
bang giao độc lập và bình đẳng với tất cả các cường quốc. Ls
Lưu Tường Quang, AO Sydney, ngày 23.03.2014
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/60th-anni-genev-agreem-07212014113041.html
No comments:
Post a Comment