Hai
hôm trước, tôi có nhận thông báo từ Nhạc sĩ Phạm Anh Dũng (Santa
Clara, California) là Ca sĩ Quỳnh Giao đã qua đời. Tôi bàng hoàng vì
không ngờ chị ra đi quá nhanh ở tuổi 68. Sở dĩ tôi nói quá nhanh là vì
chỉ mới vài tháng trước tôi được tin chị lâm bệnh nặng nên "tạm thời"
ngưng chương trình "Câu Chuyện Văn Nghệ với Quỳnh Giao" ở Người Việt TV
do Nam Phương, rồi Lê Hồng Quang phụ trách. Lúc ấy, tôi thầm nghĩ:
"tội nghiệp cho ca sĩ Lê Hồng Quang, anh vừa mới bắt tay cộng tác với
ca sĩ Quỳnh Giao mục văn nghệ thật lý thú này!"
Tôi
nhớ lại một kỷ niệm đẹp vào tháng 3 năm 2012, nhân dịp qua Nam
California, Tâm Hảo và tôi đã gặp một số nghệ sĩ như Nhà Soạn Nhạc Lê
Văn Khoa, Ca sĩ Lê Hồng Quang tại studio dạy nhạc, Nhạc sĩ Thanh Trang,
Nhạc sĩ Tuấn Khanh tại quán phở "Hoa Soan Bên Thềm Cũ", và 2 Họa sĩ Vi
Vi và Cát Đơn Sa (ở San Diego).
Chúng
tôi có đến thăm ca sĩ Quỳnh Giao tại tư gia ở Garden Grove. Căn nhà
xinh xắn, vườn tược gọn ghẽ, trang trí thanh nhã và dĩ nhiên không thể
thiếu cái đàn piano ở phòng khách. Chị vui tươi, trẻ trung niềm nở
chào đón "khách phương xa". Sau đó, chị ký tặng một số sách "Tạp Ghi
Quỳnh Giao" vừa ra mắt vài tháng trước (10/2011). Tuy ở xa nhưng chị
vẫn được tin tức của anh chị em văn nghệ vùng Hoa Thịnh Đốn.
Theo
thiển ý, ca sĩ Quỳnh Giao là một người có thực tài về nhiều khía cạnh
nghệ thuật. Ngoài ca hát, chị còn đàn và dạy piano, viết văn, làm chương
trình "talk show" TV ...
Chị được nuôi dưỡng trong một môi trường âm nhạc lý tưởng (Mẹ là danh ca Minh Trang, Bố dượng là nhạc sĩ Dương Thiệu Tước). Chiều dầy kinh nghiệm của chị do học hỏi và thực hành hầu như mỗi ngày từ các ban Tuổi Xanh, Tây Hồ, Tiếng Tơ Đồng và huấn luyện chính thức từ các giáo sư nổi tiếng của Trường Quốc Gia Âm Nhạc (tốt nghiệp ngành piano).
Ca sĩ Quỳnh Giao có giọng ca soprano, thanh, mỏng và có kỹ thuật cao về đơn ca và hát bè. Danh ca Châu Hà đã từng nói: "tiếng hát Quỳnh Giao vẫn trong, chưa hề vẩn đục, tôi đặt tên cho giọng hát này là giọng hát thủy tinh (crystal)" khi giới thiệu Quỳnh Giao hát nhạc phẩm "Yêu" của Nhạc sĩ Văn Phụng năm 1988.
Chị được nuôi dưỡng trong một môi trường âm nhạc lý tưởng (Mẹ là danh ca Minh Trang, Bố dượng là nhạc sĩ Dương Thiệu Tước). Chiều dầy kinh nghiệm của chị do học hỏi và thực hành hầu như mỗi ngày từ các ban Tuổi Xanh, Tây Hồ, Tiếng Tơ Đồng và huấn luyện chính thức từ các giáo sư nổi tiếng của Trường Quốc Gia Âm Nhạc (tốt nghiệp ngành piano).
Ca sĩ Quỳnh Giao có giọng ca soprano, thanh, mỏng và có kỹ thuật cao về đơn ca và hát bè. Danh ca Châu Hà đã từng nói: "tiếng hát Quỳnh Giao vẫn trong, chưa hề vẩn đục, tôi đặt tên cho giọng hát này là giọng hát thủy tinh (crystal)" khi giới thiệu Quỳnh Giao hát nhạc phẩm "Yêu" của Nhạc sĩ Văn Phụng năm 1988.
Có
lẽ là một ngạc nhiên cho giới yêu âm nhạc: Quỳnh Giao có ngón đàn
piano khá điêu luyện - tuy không trình tấu solo - và chị có sáng tác năm
1965 một ca khúc tựa đề Bâng Khuâng, âm điệu cổ điển, được nhạc trưởng Vũ Thành khen ngợi.
Quỳnh Giao cộng tác nhiều năm với Báo Người Việt, giữ mục viết tạp ghi văn nghệ, phần lớn viết về ca nhạc sĩ Việt Nam trước 1975 và ngoại quốc. Bài viết của chị dễ đọc, dí dỏm, dựa trên kinh nghiệm sống thực cộng thêm khảo cứu.
Chị nói chuyện lưu loát và nghiên cứu kỹ lưỡng nên không có vấn đề khi giữ mục "Câu Chuyện Văn Nghệ với Quỳnh Giao" ở Người Việt TV.
Xin được thành tâm cảm ơn những đóng góp tích cực quý báu của chị cho tân nhạc Việt Nam.
Cầu mong hương linh ca sĩ Quỳnh Giao, pháp danh: Như Nghiêm, nhũ danh: Công Tằng Tôn Nữ Đoan Trang, sớm về cõi Niết Bàn.
Phan Anh Dũng (Richmond, Virginia - USA; 25 tháng 7, 2014)
Nghệ sĩ Quỳnh Giao qua đời, hưởng thọ 68 tuổi
(Nguồn: http://www.nguoi-viet.com/ - Wednesday, July 23, 2014)
FOUNTAIN VALLEY, California (NV) - Nghệ sĩ Quỳnh Giao qua đời sáng sớm Thứ Tư, 23 Tháng Bảy, tại nhà riêng ở Fountain Valley, California, sau một thời gian bạo bệnh, hưởng thọ 68 tuổi.
Nhà bình luận Nguyễn Xuân Nghĩa, phu quân của bà, cho nhật báo Người Việt biết.
Cố nghệ sĩ Quỳnh Giao. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)
Quỳnh Giao tên thật là Công Tằng Tôn Nữ Đoan Trang*, Pháp Danh Như Nghiêm, sinh năm 1946 tại làng Vỹ Dạ, Huế, là con gái của học giả Ưng Quả * và nữ danh ca tân nhạc Minh Trang.
Khi mới 5 tuổi, thân phụ của bà qua đời, và người mẹ tái giá với nhạc sĩ Dương Thiệu Tước.(Nguồn: http://www.nguoi-viet.com/ - Wednesday, July 23, 2014)
FOUNTAIN VALLEY, California (NV) - Nghệ sĩ Quỳnh Giao qua đời sáng sớm Thứ Tư, 23 Tháng Bảy, tại nhà riêng ở Fountain Valley, California, sau một thời gian bạo bệnh, hưởng thọ 68 tuổi.
Nhà bình luận Nguyễn Xuân Nghĩa, phu quân của bà, cho nhật báo Người Việt biết.
Cố nghệ sĩ Quỳnh Giao. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)
Quỳnh Giao tên thật là Công Tằng Tôn Nữ Đoan Trang*, Pháp Danh Như Nghiêm, sinh năm 1946 tại làng Vỹ Dạ, Huế, là con gái của học giả Ưng Quả * và nữ danh ca tân nhạc Minh Trang.
Nghệ
sĩ Quỳnh Giao nổi tiếng ngay từ lúc thiếu thời, từng hát trên đài phát
thanh quốc gia Sài Gòn, trong các chương trình của Ban Nhi Ðồng Kiều
Hạnh.
Nghệ sĩ Quỳnh Giao tốt nghiệp thủ khoa lớp dương cầm, và được một nhạc sĩ của Trung Tâm Văn Hóa Pháp, hướng dẫn về thanh nhạc và opera.
Từ tuổi 15, Quỳnh Giao đã trở thành một ca sĩ chuyên nghiệp, là một trong những ca sĩ quan trọng trong các chương trình của các đài phát thanh Sài Gòn, Quân Ðội và Tiếng Nói Tự Do.
Trong những năm đầu thập niên 1970, Quỳnh Giao cũng với các em gái là Vân Quỳnh, Vân Khanh và Vân Hòa thành lập ban tứ ca Bốn Phương, chuyên hát tại vũ trường Ritz và thu âm cho các trung tâm băng nhạc Jo Marcel, Phạm Mạnh Cương và Premier.
Bà sang Mỹ năm 1975, định cư đầu tiên tại tiểu bang Virginia, đến thập niên 1990 thì chuyển về sống tại California.
Nghệ sĩ Quỳnh Giao cùng với hai ca sĩ Mai Hương và Kim Tước lập ban Tiếng Tơ Ðồng ở hải ngoại và thu được nhiều thành công.
Ngoài ra, bà luôn luôn hỗ trợ các sinh hoạt văn hóa và nghệ thuật trong cộng đồng, và cũng cộng tác với nhiều cơ quan truyền thông Việt ngữ. Nghệ sĩ Quỳnh Giao phụ trách mục Câu Chuyện Âm Nhạc trên nhật báo Người Việt và Người Việt TV trong nhiều năm.
Vài tháng cuối đời, vì sức khỏe yếu, bà không còn viết nữa. Tuy nhiên, chỉ cách đây vài tuần, bà đã viết bài viết - có lẽ là cuối cùng trong đời - về âm nhạc Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975, cho số báo đặc biệt kỷ niệm 60 Năm Hiệp Định Geneva, đăng trên Người Việt. (Ð.D.)
Nghệ sĩ Quỳnh Giao tốt nghiệp thủ khoa lớp dương cầm, và được một nhạc sĩ của Trung Tâm Văn Hóa Pháp, hướng dẫn về thanh nhạc và opera.
Từ tuổi 15, Quỳnh Giao đã trở thành một ca sĩ chuyên nghiệp, là một trong những ca sĩ quan trọng trong các chương trình của các đài phát thanh Sài Gòn, Quân Ðội và Tiếng Nói Tự Do.
Trong những năm đầu thập niên 1970, Quỳnh Giao cũng với các em gái là Vân Quỳnh, Vân Khanh và Vân Hòa thành lập ban tứ ca Bốn Phương, chuyên hát tại vũ trường Ritz và thu âm cho các trung tâm băng nhạc Jo Marcel, Phạm Mạnh Cương và Premier.
Bà sang Mỹ năm 1975, định cư đầu tiên tại tiểu bang Virginia, đến thập niên 1990 thì chuyển về sống tại California.
Nghệ sĩ Quỳnh Giao cùng với hai ca sĩ Mai Hương và Kim Tước lập ban Tiếng Tơ Ðồng ở hải ngoại và thu được nhiều thành công.
Ngoài ra, bà luôn luôn hỗ trợ các sinh hoạt văn hóa và nghệ thuật trong cộng đồng, và cũng cộng tác với nhiều cơ quan truyền thông Việt ngữ. Nghệ sĩ Quỳnh Giao phụ trách mục Câu Chuyện Âm Nhạc trên nhật báo Người Việt và Người Việt TV trong nhiều năm.
Vài tháng cuối đời, vì sức khỏe yếu, bà không còn viết nữa. Tuy nhiên, chỉ cách đây vài tuần, bà đã viết bài viết - có lẽ là cuối cùng trong đời - về âm nhạc Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975, cho số báo đặc biệt kỷ niệm 60 Năm Hiệp Định Geneva, đăng trên Người Việt. (Ð.D.)
Phỏng vấn Ca sĩ Quỳnh Giao - Ngọc Lan thực hiện 2011 (Youtube)
Phỏng vấn Ca sĩ Qùynh Giao - Nam Phương thực hiện 2013 (Youtube)
Phân Ưu từ website của Nhạc sĩ Lê Dinh (Montreal, Canada)
Cassettes và CDs của Quỳnh Giao
Quỳnh Giao thực hiện:
1. Quỳnh Giao - Hát Cho Kỷ Niệm 1, 1986
2. Quỳnh Giao - Hát Cho Kỷ Niệm 2, 1988
3. Khúc Nguyệt Quỳnh, 1992
4. Tiếng Chuông Chiều Thu, 1996
5. Chiều Về Trên Sông, 1997
6. Ngàn Thu Áo Tím, 1998
6. Hành Trình Phạm Duy, 1999
7. Hình Ảnh Một Buổi Chiều, 2000
8. Văn Phụng & Hoàng Trọng, 2001
9. Thơ tình Phổ nhạc, 2002
10. Hoa Xuân, 2003
11. Xuân Tha Hương, 10 bài hát về Quê Hương đánh dấu ba mươi năm Quỳnh Giao xa quê nhà, 2005
12. Tình ca Phạm Duy, 10 bài hát Quỳnh Giao yêu thích nhất, 2005
Các Trung tâm khác thực hiện:
1. Đêm Tàn Bến Ngự - Tình Khúc Dương Thiệu Tước: Quỳnh Giao-Kim Tước, Mai Ngọc Khánh thực hiện, 1995
2. Tình Khúc Văn Cao: Mai Hương-Quỳnh Giao, Mai Ngọc Khánh thực hiện, 1995
3. Tìm Nhau Bốn Mùa: Kim Tước, Mai Hương, Quỳnh Giao và Duy Trác. Kim Tước thực hiện 1998.
Quỳnh Giao thực hiện:
1. Quỳnh Giao - Hát Cho Kỷ Niệm 1, 1986
2. Quỳnh Giao - Hát Cho Kỷ Niệm 2, 1988
3. Khúc Nguyệt Quỳnh, 1992
4. Tiếng Chuông Chiều Thu, 1996
5. Chiều Về Trên Sông, 1997
6. Ngàn Thu Áo Tím, 1998
6. Hành Trình Phạm Duy, 1999
7. Hình Ảnh Một Buổi Chiều, 2000
8. Văn Phụng & Hoàng Trọng, 2001
9. Thơ tình Phổ nhạc, 2002
10. Hoa Xuân, 2003
11. Xuân Tha Hương, 10 bài hát về Quê Hương đánh dấu ba mươi năm Quỳnh Giao xa quê nhà, 2005
12. Tình ca Phạm Duy, 10 bài hát Quỳnh Giao yêu thích nhất, 2005
Các Trung tâm khác thực hiện:
1. Đêm Tàn Bến Ngự - Tình Khúc Dương Thiệu Tước: Quỳnh Giao-Kim Tước, Mai Ngọc Khánh thực hiện, 1995
2. Tình Khúc Văn Cao: Mai Hương-Quỳnh Giao, Mai Ngọc Khánh thực hiện, 1995
3. Tìm Nhau Bốn Mùa: Kim Tước, Mai Hương, Quỳnh Giao và Duy Trác. Kim Tước thực hiện 1998.
Một số hình ảnh
Dương cầm thủ Quỳnh Giao thu hình trước 1975
Quỳnh Giao, Mai Hương & Đoàn Chính
Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên & Quỳnh Giao
Ca sĩ: Anh Ngọc, Mai Hương, Kim Tước, Quỳnh Giao, Hà Thanh
Ca sĩ: Anh Dũng (Cali), Kim Tước, Quỳnh Giao, Mai Hương - Buổi nhạc "Chiều Nhớ" - 2006 ở Virginia
Ca
sĩ Quỳnh Giao trình bày "THỤY KHÚC" của Vũ Thành (hòa âm: Lê Văn
Khoa) - Chương trình A Lifetime of Music 2013 California - Nhạc Trưởng
Khánh Hồng điều khiển dàn nhạc Vietnamese American Philharmonic
Symphony Orchestra
Ca
sĩ Quỳnh Giao (áo vàng cam bên phải) - Đêm nhạc Cung Tiến "Vết Chim
Bay" 2010 với các ca sĩ: Anh Dũng, Bích Liên, Phạm Hà, Trần Đại Phước,
Phạm Đăng Khoa, Lê Hồng Quang, Bích Vân, Lệ Thu ...
Quỳnh Giao: Tiếng ca mở nẻo lam kiều - Bài viết của: Hồ Trường An
Hồi ở quê nhà, trên tivi, tôi chưa thấy ai hát bản "Xuân Và Tuổi Trẻ" của La Hối tươi vui và rạng rỡ như Quỳnh Giao, dù khi diễn tả bài này cô không nhún nhảy, không phô trương mắt liếc miệng cười. Điệu đà, ỏn ẻn như mấy cô vợ bé nũng nịu với chồng là không có cô. Ở ngay tiếng hát cô, khán thính giả đã thấy mùa xuân tươi sáng và tuổi trẻ hạnh phúc trong đó rồi. Còn bản "Giòng Sông Xanh" của Johann Strauss, cô hát sao mà nhẹ nhàng, thênh thang, trơn ngọt, ngân bằng nguyên âm thật sướng tai. Từng chuỗi ngân dài như dải lụa rập rờn trong gió tuôn ra không chút nắn nót.
Hồi ở quê nhà, trên tivi, tôi chưa thấy ai hát bản "Xuân Và Tuổi Trẻ" của La Hối tươi vui và rạng rỡ như Quỳnh Giao, dù khi diễn tả bài này cô không nhún nhảy, không phô trương mắt liếc miệng cười. Điệu đà, ỏn ẻn như mấy cô vợ bé nũng nịu với chồng là không có cô. Ở ngay tiếng hát cô, khán thính giả đã thấy mùa xuân tươi sáng và tuổi trẻ hạnh phúc trong đó rồi. Còn bản "Giòng Sông Xanh" của Johann Strauss, cô hát sao mà nhẹ nhàng, thênh thang, trơn ngọt, ngân bằng nguyên âm thật sướng tai. Từng chuỗi ngân dài như dải lụa rập rờn trong gió tuôn ra không chút nắn nót.
Quỳnh
Giao hát cực kỳ điêu luyện, ai ai cũng biết. Quỳnh Giao tốt nghiệp môn
dương cầm trường Quốc Gia Âm Nhạc, có ngón đàn tươi và sành điệu, chắc
chẳng ai quên. Nhưng mấy ai biết sự thuỷ chung và ý tình thắm thiết của
cô đối với ca hát? Ca hát là tôn giáo của cô, là mục đích mà cô đeo đuổi
hơn ba phần tư cuộc đời, dù khách sành điệu của cô quá ít, dù kẻ biết
được cái chân giá trị của giọng hát cô chẳng được bao nhiêu ngươì nữa.
Ở
ngoài đời, Quỳnh Giao có cung cách thật cao sang, cho nên cô giữ gìn
tiếng hát cô quý phái theo. Cô không bao giờ vừa hát vừa nhỏng nhẻo với
khán giả, hoặc làm như đang hổn hển say nhừ lạc thú ái ân như mấy bà
sủng phi ỏn ẻn mê hoặc đức vua hiếu sắc hiếu dâm, như mấy cô kỹ nữ nịch
ái các khách làng chơi khờ khạo. Cô đưa tình cảm vào giọng hát có chừng
mực. Người chưa sành điệu khó cảm thông nổi giọng hát của cô vì đối với
họ nó hơi làn lạt, chưa đủ ngọt say sưa như mật ong, mà cũng không đắng
đậm như mật gấu. Tuy nhiên, cô không hát quá chân phương như Mộc Lan hay
như Anh Ngọc. Tình cảm trong giọng hát của cô phơn phớt và dịu nhẹ. Cô
cũng dùng nét láy thật mềm để trang sức cho giọng hát mình thêm nét gợi
cảm, để nữ tính cô được bộc lộ một phần nào. Hình như cho tới bây giờ,
Quỳnh Giao vẫn giữ giọng thiếu nữ non mềm và tươi mươn mướt, một giọng
trong ngần và trắng loá loá như pha lê.
Giọng
Quỳnh Giao thuộc loại kim (soprano). Khi hát ở những chỗ ngang ngang
thì nó quá diụ mềm làm cho chúng ta nghĩ tới hình ảnh các cô khuê nữ
kiều nhược. Khi lên cao, giọng cô tuy không xé lụa, như giọng Ánh Tuyết,
tuy không lảnh lót chuông ngân như giọng Thùy Nhiên năm nào, nhưng vẫn
chắc, vẫn dẻo, vẫn thoải mái và thống khoái. Cô lại còn ưa chuyền hơi,
từ tiếng chót câu đầu cô ngân nga thật dài rồi bắt qua tiếng đầu của câu
sau với một làn hơi óng ả vóc nhung tơ và dồi như nước sông mùa lũ,
nghe mà cảm thấy đã cái lỗ tai biết dường nào.
Quỳnh
Giao thường hát những bài chọn lọc, có phẩm chất cao. Cô không chìu
theo thị hiếu của khán thính giả tạp nhạp. Cô nhắm vào khách sành điệu
ít oi, dù nghìn người chỉ có một người đi nữa. Cô hát những bản có nhiều
chỗ lên cao để cô có thể biểu diễn giọng kim cao vút và sáng nguy nga,
sáng lồng lộng của mình như: "Chiều Về Trên Sông" của Phạm Duy, "Tiếng
Dương Cầm" và "Mưa Trên Phím Ngà" của Văn Phụng,"Hẹn Một Ngày Về" của Lê
Hữu Mục, "Tiếng Thời Gian" của Lâm Tuyền, "Hoài Cảm" và "Thu Vàng" của
Cung Tiến. Bản "Sao Đêm" của Lê Trọng Nguyễn và "Đường Chiều Lá Rụng"
của Phạm Duy tuy không có chỗ lên thật cao nhưng vẫn là hai bản khó hát,
các ca sĩ có kỹ thuật non kém sẽ hát tuột giọng, đâm hơi, lạc giọng...
nhưng vốn có kỹ thuật thâm hậu, Quỳnh Giao hát rất đúng giọng, không sai
một bán cung, rất điệu nghệ, càng nghe càng khoái.
Mời nghe toàn bộ cassette "Hát Cho Kỷ Niệm 2" do Quỳnh Giao trình bày
Một kỷ niệm đẹp, Lê Hồng Quang hát với ca sĩ Quỳnh Giao và Bảo Cơ: Viễn Du của Phạm Duy
Quỳnh Giao - Bài viết của: Nguyễn Long
Con gái lớn của nữ ca sỹ Minh Trang, người Huế giòng Tôn Thất, nên vóc dáng, nếp sống ngoài đời cũng như trên sân khấu, hình ảnh, dáng dấp Quỳnh Giao đã được các bạn và khán giả tặng danh hiệu “Nàng Công Chúa của Tân Nhạc Việt Nam”
Khuôn mặt trái soan, vóc dáng khoan thai dịu dàng, giọng hát trong như giòng suối, nhẹ nhàng thiết tha, truyền cảm, thủ khoa nhạc lý, piano khóa 63 & 64 trường Quốc Gia Âm Nhạc nên kỹ thuật rất vững vàng điêu luyện.
Quỳnh Giao trình diễn như diễn đạt hồn mình qua từng ca khúc, rất chọn lựa tác phẩm, khung cảnh để trình bày, thường trực trên các đài phát thanh, truyền hình, ít xuất hiện trên sân khấu, nhưng hình ảnh Quỳnh Giao “Nàng Công Chúa của Tân Nhạc Việt Nam” đã gây thành ấn tượng không thể phai mờ trong tâm khảm Việt Nam. Tháng 8-70 Quỳnh Giao và các em thành lập ban “Tứ Ca Bốn Phương” trình diễn tại nhà hàng Ritz trên đường Trần Hưng Đạo của Jo Marcel, liên tục trong 6 tháng rất thành công. Gặp lại ngày 17-1-98, chụp hình và phỏng vấn Quỳnh Giao.
Hỏi: Thích nhạc từ bao giờ?
Quỳnh Giao: Từ nhỏ, nghe mẹ hát tối ngày mà.
Hỏi: Biết hát từ bao giờ?
Quỳnh Giao: Nhỏ xíu, bài “Reo Vang Bình Minh” của nhạc sỹ Lưu Hữu Phước, sau đó theo học trường Âm Nhạc, piano với bà Đỗ Thế Phiệt, nhạc lý với nhạc sỹ Hùng Lân, thủ khoa niên khóa 63 & 64 trường Quốc Gia Âm Nhạc về 2 môn Nhạc Lý & Piano.
Hỏi: Khởi đầu trình diễn?
Quỳnh Giao: 8 tuổi ban thiếu sinh nhi đồng trong Đại Nhạc Hội trình diễn tại rạp Moderne đường Trần Quang Thạch Tân Định, sau đó là các Đài Phát Thanh, sân khấu, phòng trà.
Hỏi: Sinh hoạt hiện thời trên sân khấu?
Quỳnh Giao: Xuất hiện trong những chương trình “Đặc biệt” yểm trợ thân hữu, cộng đồng, tôn giáo.
Hỏi: Hoạt động ngoài sân khấu?
Quỳnh Giao: Dạy Piano từ đó tới nay.
Hỏi: Ý nguyện?
Quỳnh Giao: Phục vụ hết đời cho âm nhạc, tiến triển, giữ gìn nghệ thuật.
Hỏi: Có điều chi tâm sự?
Quỳnh Giao: Cám ơn các bạn cùng khán thính giả, luôn nhớ tới Quỳnh Giao từ trên 30 năm nay, cảm ơn TRỜI đã cho cơ hội, cám ơn các nhạc sỹ đã sáng tác để ca sỹ có việc làm.
Nguyễn Long
(trích “88 Nữ Ca Sỹ Trong Nước Mỹ & Canada”. 1998)
Con gái lớn của nữ ca sỹ Minh Trang, người Huế giòng Tôn Thất, nên vóc dáng, nếp sống ngoài đời cũng như trên sân khấu, hình ảnh, dáng dấp Quỳnh Giao đã được các bạn và khán giả tặng danh hiệu “Nàng Công Chúa của Tân Nhạc Việt Nam”
Khuôn mặt trái soan, vóc dáng khoan thai dịu dàng, giọng hát trong như giòng suối, nhẹ nhàng thiết tha, truyền cảm, thủ khoa nhạc lý, piano khóa 63 & 64 trường Quốc Gia Âm Nhạc nên kỹ thuật rất vững vàng điêu luyện.
Quỳnh Giao trình diễn như diễn đạt hồn mình qua từng ca khúc, rất chọn lựa tác phẩm, khung cảnh để trình bày, thường trực trên các đài phát thanh, truyền hình, ít xuất hiện trên sân khấu, nhưng hình ảnh Quỳnh Giao “Nàng Công Chúa của Tân Nhạc Việt Nam” đã gây thành ấn tượng không thể phai mờ trong tâm khảm Việt Nam. Tháng 8-70 Quỳnh Giao và các em thành lập ban “Tứ Ca Bốn Phương” trình diễn tại nhà hàng Ritz trên đường Trần Hưng Đạo của Jo Marcel, liên tục trong 6 tháng rất thành công. Gặp lại ngày 17-1-98, chụp hình và phỏng vấn Quỳnh Giao.
Hỏi: Thích nhạc từ bao giờ?
Quỳnh Giao: Từ nhỏ, nghe mẹ hát tối ngày mà.
Hỏi: Biết hát từ bao giờ?
Quỳnh Giao: Nhỏ xíu, bài “Reo Vang Bình Minh” của nhạc sỹ Lưu Hữu Phước, sau đó theo học trường Âm Nhạc, piano với bà Đỗ Thế Phiệt, nhạc lý với nhạc sỹ Hùng Lân, thủ khoa niên khóa 63 & 64 trường Quốc Gia Âm Nhạc về 2 môn Nhạc Lý & Piano.
Hỏi: Khởi đầu trình diễn?
Quỳnh Giao: 8 tuổi ban thiếu sinh nhi đồng trong Đại Nhạc Hội trình diễn tại rạp Moderne đường Trần Quang Thạch Tân Định, sau đó là các Đài Phát Thanh, sân khấu, phòng trà.
Hỏi: Sinh hoạt hiện thời trên sân khấu?
Quỳnh Giao: Xuất hiện trong những chương trình “Đặc biệt” yểm trợ thân hữu, cộng đồng, tôn giáo.
Hỏi: Hoạt động ngoài sân khấu?
Quỳnh Giao: Dạy Piano từ đó tới nay.
Hỏi: Ý nguyện?
Quỳnh Giao: Phục vụ hết đời cho âm nhạc, tiến triển, giữ gìn nghệ thuật.
Hỏi: Có điều chi tâm sự?
Quỳnh Giao: Cám ơn các bạn cùng khán thính giả, luôn nhớ tới Quỳnh Giao từ trên 30 năm nay, cảm ơn TRỜI đã cho cơ hội, cám ơn các nhạc sỹ đã sáng tác để ca sỹ có việc làm.
Nguyễn Long
(trích “88 Nữ Ca Sỹ Trong Nước Mỹ & Canada”. 1998)
Ca sĩ Quỳnh Giao hát: SAO ĐÊM (nhạc & lời: Lê Trọng Nguyễn)
Quỳnh Châu, Quỳnh Giao, Mai Hương, Bà Lê Trọng Nguyễn, Phạm Anh Dũng
(Nguồn: Tưởng nhớ Nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn - website Cỏ Thơm)
Quỳnh Giao Với "Tình Khúc Phạm Duy" & "Trở Về Thôn Cũ"
Trong số các ca sĩ của chúng ta, nổi tiếng ở trong nước từ trước 1975, ra khỏi nước sau 1975, vẫn còn tiếp tục hát, có lẽ Quỳnh Giao là người ít tuổi nhất.
Nhưng, trong buổi trình diễn chung mới đây, nhân dịp kỷ niệm 50 năm hát của Mai Hương, trước số khán giả đông nghẹt hội trường của nhật báo Người Việt, Kim Tước đã nói một câu hài hước rằng, ban hợp ca “Tiếng Tơ Ðồng” của họ, [gồm Kim Tước, Mai Hương, Quỳnh Giao], nay có thể gọi là ban “Tiếng Tơ Bạc” được rồi. Ðiều ấy, cũng có nghĩa là cái người ít tuổi nhất kia giờ cũng không còn trẻ nữa.
Song phải thấy Quỳnh Giao đứng trên sân khấu, nói chuyện, ứng phó với khán giả, với thái độ chững chạc - mới thấy “tuổi tác” có cái đẹp riêng. Chẳng hạn khi xuất hiện trong một tiết mục [sau] - bận một bộ đồ mới, màu vàng điểm hoa hơi sặc sỡ với một chiếc khăn cùng màu “rất điệu” vắt ngang trên tóc, khán giả cười ồ. Quỳnh Giao đã quay xuống hỏi: “Có phải quý vị cười vì Quỳnh Giao thay áo không”. Thay áo? Thật khéo. Câu nói đã lấy được hết cảm tình của khán giả. Tự nhiên người ta quên cả cách ăn mặc chỉ trước đó vài phút có thể người ta cho là hơi “xí xọn” giờ lại thấy nó có vẻ gì đó duyên dáng!
Có những tiếng hát, nghe rồi, khi gặp người hát, người ta có cảm tưởng, giữa người hát và tiếng hát, có một cái gì đó sai lạc.
Tiếng hát Quỳnh Giao hợp nhất với khuôn mặt và cả vóc dáng người hát.
Nghe và xem Quỳnh Giao hát, người ta có thể thấy ngay rằng, người như thế ắt tiếng hát phải như thế.
Mong manh. Trong sáng. Dịu dàng.
Có người cho rằng giọng hát Quỳnh Giao hơi mỏng.
Ðó là điều người ta có thể thích hay không thích.
Nhưng cái vẻ sang trọng và kỹ thuật điêu luyện của tiếng hát thì không ai có thể phủ nhận được.
Hai CD sau cùng vừa hoàn tất của Quỳnh Giao “Trở Về Thôn Cũ” và “Tình Khúc Phạm Duy” ghi dấu sự đổi thay thật sự của giọng hát Quỳnh Giao.
Như trái đã đủ chín, rượu đã đủ nồng.
Không phải chỉ vì ảnh hưởng của thời gian mà còn do những đổi thay, vui buồn của cuộc sống làm nên nữa.
Tiếng hát khoan thai hơn, dịu dàng hơn.
Người ta càng thấy rõ cái vẻ mỏng manh của giọng hát Quỳnh Giao vừa là khuyết điểm vừa là ưu điểm.
Nó không chuyên chở được những đam mê bốc cháy, nhưng lại làm cho người ta hiểu được cái đẹp, cái mong manh của đời sống.
Tham dự buổi trình diễn kỷ niệm 50 năm hát của Mai Hương, có sự tham dự của Quỳnh Giao và Kim Tước người ta ghi nhận hiện tượng này: Thính giả của họ là những thính giả đặc biệt, dù đông đảo như thế, nhưng hình như không có một người nào dưới 40 tuổi. Nhiều nhất vẫn là những người ở quanh tuổi với người hát.
Thật cảm động khi thấy quanh những hàng ghế khán giả, giữa những mái đầu hoa râm, và cả bạc trắng nữa, luôn có những tiếng lẩm nhẩm hát theo ca sĩ.
Họ thuộc gần hết các bài ca sĩ hát.
Ca sĩ hát sai cho dù chỉ một từ trong phần lời ca chắc chắn đủ gây cho họ sự khó chịu.
Họ đến đấy không phải chỉ để nghe hát mà còn muốn chia xẻ với người hát và cả tác giả nữa cái hay, cái đẹp của tác phẩm, những tang thương biến đổi của lịch sử, vì những tác phẩm ấy đã nằm sâu trong lòng họ, nhắc lại với nhau một quá khứ chung đã mất và những ngày còn lại.
Họ đến đấy để gặp lại nhau và cả để biệt nhau nữa. Như người xưa tới thăm hoa và biệt hoa vì hiểu rằng “thất thập tam nhân nan tái đáo”, một người 73 tuổi khó còn có lần trở lại...
Người hát, người nghe và một số tác giả, đã cùng tạo ra một thế giới riêng, có thể như thế.
Cái thế giới đó đã khô cạn, người đã chết, cảnh đã thay đổi, đã biến mất, tình cảm xa lạ, không có gì hấp dẫn và dính dấp với họ, họ nhập vào đấy để làm gì?
Ðó là một thực tế.
Chấp nhận thực tế ấy là chấp nhận một sự đứt rời với quá khứ.
Nhưng nếu các tác phẩm ấy rồi vẫn sẽ còn tồn tại, như nó từng tồn tại, và “người sau” có lúc chợt thắc mắc tự hỏi không biết “người xưa lưu luyến ra sao nhỉ”, họ có thể tìm và nghe lại Quỳnh Giao, để hiểu điều đó và để biết người đồng thời yêu và trình diễn những tác phẩm ấy thế nào.
Vì, Quỳnh Giao là một trong những người đáng tin cậy đấy.
Nguyễn Ðình Toàn
Trong số các ca sĩ của chúng ta, nổi tiếng ở trong nước từ trước 1975, ra khỏi nước sau 1975, vẫn còn tiếp tục hát, có lẽ Quỳnh Giao là người ít tuổi nhất.
Nhưng, trong buổi trình diễn chung mới đây, nhân dịp kỷ niệm 50 năm hát của Mai Hương, trước số khán giả đông nghẹt hội trường của nhật báo Người Việt, Kim Tước đã nói một câu hài hước rằng, ban hợp ca “Tiếng Tơ Ðồng” của họ, [gồm Kim Tước, Mai Hương, Quỳnh Giao], nay có thể gọi là ban “Tiếng Tơ Bạc” được rồi. Ðiều ấy, cũng có nghĩa là cái người ít tuổi nhất kia giờ cũng không còn trẻ nữa.
Song phải thấy Quỳnh Giao đứng trên sân khấu, nói chuyện, ứng phó với khán giả, với thái độ chững chạc - mới thấy “tuổi tác” có cái đẹp riêng. Chẳng hạn khi xuất hiện trong một tiết mục [sau] - bận một bộ đồ mới, màu vàng điểm hoa hơi sặc sỡ với một chiếc khăn cùng màu “rất điệu” vắt ngang trên tóc, khán giả cười ồ. Quỳnh Giao đã quay xuống hỏi: “Có phải quý vị cười vì Quỳnh Giao thay áo không”. Thay áo? Thật khéo. Câu nói đã lấy được hết cảm tình của khán giả. Tự nhiên người ta quên cả cách ăn mặc chỉ trước đó vài phút có thể người ta cho là hơi “xí xọn” giờ lại thấy nó có vẻ gì đó duyên dáng!
Có những tiếng hát, nghe rồi, khi gặp người hát, người ta có cảm tưởng, giữa người hát và tiếng hát, có một cái gì đó sai lạc.
Tiếng hát Quỳnh Giao hợp nhất với khuôn mặt và cả vóc dáng người hát.
Nghe và xem Quỳnh Giao hát, người ta có thể thấy ngay rằng, người như thế ắt tiếng hát phải như thế.
Mong manh. Trong sáng. Dịu dàng.
Có người cho rằng giọng hát Quỳnh Giao hơi mỏng.
Ðó là điều người ta có thể thích hay không thích.
Nhưng cái vẻ sang trọng và kỹ thuật điêu luyện của tiếng hát thì không ai có thể phủ nhận được.
Hai CD sau cùng vừa hoàn tất của Quỳnh Giao “Trở Về Thôn Cũ” và “Tình Khúc Phạm Duy” ghi dấu sự đổi thay thật sự của giọng hát Quỳnh Giao.
Như trái đã đủ chín, rượu đã đủ nồng.
Không phải chỉ vì ảnh hưởng của thời gian mà còn do những đổi thay, vui buồn của cuộc sống làm nên nữa.
Tiếng hát khoan thai hơn, dịu dàng hơn.
Người ta càng thấy rõ cái vẻ mỏng manh của giọng hát Quỳnh Giao vừa là khuyết điểm vừa là ưu điểm.
Nó không chuyên chở được những đam mê bốc cháy, nhưng lại làm cho người ta hiểu được cái đẹp, cái mong manh của đời sống.
Tham dự buổi trình diễn kỷ niệm 50 năm hát của Mai Hương, có sự tham dự của Quỳnh Giao và Kim Tước người ta ghi nhận hiện tượng này: Thính giả của họ là những thính giả đặc biệt, dù đông đảo như thế, nhưng hình như không có một người nào dưới 40 tuổi. Nhiều nhất vẫn là những người ở quanh tuổi với người hát.
Thật cảm động khi thấy quanh những hàng ghế khán giả, giữa những mái đầu hoa râm, và cả bạc trắng nữa, luôn có những tiếng lẩm nhẩm hát theo ca sĩ.
Họ thuộc gần hết các bài ca sĩ hát.
Ca sĩ hát sai cho dù chỉ một từ trong phần lời ca chắc chắn đủ gây cho họ sự khó chịu.
Họ đến đấy không phải chỉ để nghe hát mà còn muốn chia xẻ với người hát và cả tác giả nữa cái hay, cái đẹp của tác phẩm, những tang thương biến đổi của lịch sử, vì những tác phẩm ấy đã nằm sâu trong lòng họ, nhắc lại với nhau một quá khứ chung đã mất và những ngày còn lại.
Họ đến đấy để gặp lại nhau và cả để biệt nhau nữa. Như người xưa tới thăm hoa và biệt hoa vì hiểu rằng “thất thập tam nhân nan tái đáo”, một người 73 tuổi khó còn có lần trở lại...
Người hát, người nghe và một số tác giả, đã cùng tạo ra một thế giới riêng, có thể như thế.
Cái thế giới đó đã khô cạn, người đã chết, cảnh đã thay đổi, đã biến mất, tình cảm xa lạ, không có gì hấp dẫn và dính dấp với họ, họ nhập vào đấy để làm gì?
Ðó là một thực tế.
Chấp nhận thực tế ấy là chấp nhận một sự đứt rời với quá khứ.
Nhưng nếu các tác phẩm ấy rồi vẫn sẽ còn tồn tại, như nó từng tồn tại, và “người sau” có lúc chợt thắc mắc tự hỏi không biết “người xưa lưu luyến ra sao nhỉ”, họ có thể tìm và nghe lại Quỳnh Giao, để hiểu điều đó và để biết người đồng thời yêu và trình diễn những tác phẩm ấy thế nào.
Vì, Quỳnh Giao là một trong những người đáng tin cậy đấy.
Nguyễn Ðình Toàn
Mời nghe toàn bộ CD "Trở Về Thôn Cũ" với tiếng hát Quỳnh Giao
Mời nghe toàn bộ CD "Tình Khúc Phạm Duy" với tiếng hát Quỳnh Giao
Trích bài "Nhạc trưởng Vũ Thành và tôi" của Lê Văn Khoa - (San Diego, 25-11-1987)
Nhạc sĩ Vũ Thành rất kỹ với tác phẩm của mình nhưng cởi mở hơn nhạc sĩ Hùng Lân. Nhiều người biết rõ ông Vũ Thành rất trọng âm nhạc và khắt khe đối với chính bản thân mình như thế nào. Ðiều đó làm cho Quỳnh Giao thận trọng khi trình bày bài Nhặt Cánh Sao Rơi của ông. Nói cách khác Quỳnh Giao kính trọng nhạc sĩ Vũ Thành nên không muốn đàn đệm qua loa. Cô yêu cầu tôi viết phần piano cho tác phẩm này. Nhờ biết tài của tác giả cũng như người trình diễn, tôi phóng bút viết thoải mái. Dù vậy tôi vẫn có ý muốn cùng duyệt lại với nhạc sĩ Vũ Thành. Gặp ông trong chương trình Xuân Họp Mặt của Kim Tước ở Santa Ana hồi đầu năm nay, ông hứa trong vài hôm sẽ xuống San Diego chơi với tôi, nhưng vì bệnh thình lình ông không xuống được. Tôi gửi bài qua ông. Ông viết thư đáp lại như sau:
Takoma Park, ngày 8-6-1987
Thân gửi anh Khoa,
Tôi vừa nhận được bản Piano “Nhặt Cánh Sao Rơi”.
Rất cảm động thấy anh đã viết phần đệm công phu và rất hay. Giá tôi có tự viết chưa chắc đã kỹ được như thế. Ðủ thấy anh quý tôi rất nhiều. Xin thâm tạ tấm thịnh tình đó.
Hôm tôi qua California, có gọi Dương (cụ Ðào Hữu Dương, anh họ của nhạc sĩ Vũ Thành) mấy lần mà không được. Ðịnh bụng gọi được ông Dương rồi sẽ gọi anh. Rồi bất chợt bị ốm quá không kịp chào ai cả xách khăn gói về Washington ngay. Tôi vốn không phải là pianist nên không hiểu bản anh viết có khó lắm không nhưng trông bộ chắc Quỳnh Giao tập cũng khước mới đánh được. Chưa được Quỳnh Giao cho nghe, khả năng thẩm định bằng mắt không được bén nhạy lắm nên không dám phê bình sát. Chỉ biết accord hay và phần basse rất cẩn thận đi mouvement contraire rất tài. Chắc vài hôm nữa thì sẽ được Quỳnh Giao cho nghe. Ðộ tháng Novembre hay đúng hơn cuối Décembre tôi lại sang California, sẽ gặp anh hàn huyên nhiều.
Xin thân nhiệt chúc anh chị và các cháu mạnh. Hẹn sẽ gặp lại.
Thân mến,
Vũ Thành
Ðây là bức thư ngắn nhất của nhạc sĩ Vũ Thành gửi cho tôi. Ý tứ không được mạch lạc, nét chữ càng gần cuối thư càng tháu, khó đọc, chứng tỏ ông không được khỏe tuy ông không đề cập đến.
Bài Nhặt Cánh Sao Rơi Quỳnh Giao đã thu băng. Quỳnh Giao đàn xuất sắc và hát thật hay. Ông Vũ Thành rất hài lòng. Gần ngày lâm chung, Quỳnh Giao đến thăm, ông còn thều thào hát lên những chỗ Quỳnh Giao hát mà ông thích nhất. Ðiều đó chứng tỏ ông sống trọn vẹn trong âm thanh và gạt bỏ mọi sự khác ra ngoài cuộc đời.
Quỳnh Giao đàn và hát "Nhặt Cánh Sao Rơi" - với lời giới thiệu của Dương Ngọc Hoán và ca sĩ Kim Tước (1988)
Quỳnh Giao đệm đàn "Nhặt Cánh Sao Rơi" cho ca sĩ Kim Tước hát 1992 Houston, Texas (youtube)
"Câu Chuyện Văn Nghệ với Quỳnh Giao" ở Người Việt TV
Với sự cộng tác của Nam Phương và Lê Hồng Quang. Mời quý vị xem vài youtube tiêu biểu:
Composer Lê Văn Khoa và Đêm Nhạc A Lifetime of Music
Đề tài Hoa trong tân nhạc Việt Nam
Tưởng Nhớ Nhạc sĩ Nhật Ngân
Đôi Nét về Ca sĩ Hà Thanh
Mời nghe toàn bộ CD "Hoa Xuân" do Quỳnh Giao trình bày
1. Dưới Giàn Hoa Cũ (Tuấn Khanh)
2. Hoa Xuân (Phạm Duy)
3. Cùng Một Kiếp Hoa (Võ Đức Phấn)
4. Ngọc Lan (Dương Thiệu Tước)
5. Nụ Tầm Xuân (Phạm Duy)
6. Mùa Hoa Phượng (Văn Hạnh và Lê Đô)
7. Thiên Lý Bên Đời Vẫn Ngát Hương (Thanh Trang)
8. Hoa Tiên (Phạm Duy)
9. Bướm Hoa (Nguyễn Văn Thương)
10. Hoa Mai (Canh Thân)
Ra Mắt Tạp Ghi Quỳnh Giao: Ca Sĩ Viết Về Âm Nhạc
(Nguồn: http://www.vietbaọ.com - 24/10/2011)
WESTMINSTER (VB) - Khoảng 300 văn thi hữu, đại diện các cơ quan truyền thanh, truyền hình, báo chí, bằng hữu và đồng hương đã tham dự buổi ra mắt cuốn Tạp Ghi Quỳnh Giao tại phòng sinh hoạt Nhật Báo Người Việt, trên đường Moran, thành phố Westminster, California, Hoa Kỳ, vào chiều Chủ Nhật, ngày 23 tháng 10 năm 2011.
Hội Trường Người Việt không còn chỗ để đặt ghế, nhiều người đến sau đã phải đứng lan ra các lối đi. Dù vậy nhiều người vẫn vui vẻ đứng theo dõi các tiết mục của buổi ra mắt cuốn Tạp Ghi Quỳnh Giao từ đầu đến cuối.
Buổi chiều mùa thu tại miền Nam Cali với khí hậu mát dịu và không nắng gắt như mấy ngày trước bổng trở nên thơ mộng và nồng ấm với những tiếng hát vượt thời gian của các đồng nghiệp của ca sĩ Quỳnh Giao như Kim Tước, Mai Hương, Lê Hồng Quang, Phạm Hà qua các ca khúc Áng Mây Chiều của Dương Thiệu Tước, Chiều Tím của Đan Thọ, Kiếp Nào Có Yêu Nhau của Phạm Duy và Hình Ảnh Môät Đêm Trăng của Văn Phụng.
Trong số những văn thi hữu tham dự có những nhà văn, nhà thơ tên tuổi trong văn đàn Việt Nam như nhà văn Doãn Quốc Sỹ, nhà văn Nhã Ca, nhà thơ Trần Dạ Từ, nhà thơ Đỗ Quý Toàn, nhà văn Nguyễn Đình Toàn, nhà văn Phạm Xuân Đài, sử gia Tạ Chí Đại Trường, nhà văn Huy Phương, nhà báo Nguyễn Xuân Nghĩa, diễn viên kịch trường Lê Tuấn, v.v… Nhà báo Đinh Quang Anh Thái phụ trách phần điều hợp chương trình với tài chọc cười cử tọa rất vui nhộn.
(Nguồn: http://www.vietbaọ.com - 24/10/2011)
WESTMINSTER (VB) - Khoảng 300 văn thi hữu, đại diện các cơ quan truyền thanh, truyền hình, báo chí, bằng hữu và đồng hương đã tham dự buổi ra mắt cuốn Tạp Ghi Quỳnh Giao tại phòng sinh hoạt Nhật Báo Người Việt, trên đường Moran, thành phố Westminster, California, Hoa Kỳ, vào chiều Chủ Nhật, ngày 23 tháng 10 năm 2011.
Hội Trường Người Việt không còn chỗ để đặt ghế, nhiều người đến sau đã phải đứng lan ra các lối đi. Dù vậy nhiều người vẫn vui vẻ đứng theo dõi các tiết mục của buổi ra mắt cuốn Tạp Ghi Quỳnh Giao từ đầu đến cuối.
Buổi chiều mùa thu tại miền Nam Cali với khí hậu mát dịu và không nắng gắt như mấy ngày trước bổng trở nên thơ mộng và nồng ấm với những tiếng hát vượt thời gian của các đồng nghiệp của ca sĩ Quỳnh Giao như Kim Tước, Mai Hương, Lê Hồng Quang, Phạm Hà qua các ca khúc Áng Mây Chiều của Dương Thiệu Tước, Chiều Tím của Đan Thọ, Kiếp Nào Có Yêu Nhau của Phạm Duy và Hình Ảnh Môät Đêm Trăng của Văn Phụng.
Trong số những văn thi hữu tham dự có những nhà văn, nhà thơ tên tuổi trong văn đàn Việt Nam như nhà văn Doãn Quốc Sỹ, nhà văn Nhã Ca, nhà thơ Trần Dạ Từ, nhà thơ Đỗ Quý Toàn, nhà văn Nguyễn Đình Toàn, nhà văn Phạm Xuân Đài, sử gia Tạ Chí Đại Trường, nhà văn Huy Phương, nhà báo Nguyễn Xuân Nghĩa, diễn viên kịch trường Lê Tuấn, v.v… Nhà báo Đinh Quang Anh Thái phụ trách phần điều hợp chương trình với tài chọc cười cử tọa rất vui nhộn.
Nhà báo
Nguyễn Xuân Nghĩa, phu quân của ca sĩ Quỳnh Giao, mở đầu buổi ra mắt
sách với lời tâm tình của một ông Quỳnh Giao đóng vai trò yểm trợ tích
cực cho phu nhân bằng tất cả mọi điều làm được từ góp ý cho tác phẩm đến
sửa soạn cho buổi ra mắt sách.
Nhà văn Phạm Xuân Đài, Chủ Bút Tạp Chí Thế Kỷ 21, trong phần giới thiệu cuốn Tạp Ghi Quỳnh Giao, nói rằng độc giả có cảm nhận khác nhau khi đọc những bài tạp ghi hàng tuần trên Nhật Báo Người Việt với đọc cuốn sách. Theo nhà văn Phạm Xuân Đài cuốn Tạp Ghi này viết về âm nhạc. Nhà văn Phạm Xuân Đài cho rằng Quỳnh Giao được sống và trưởng thành trong môi trường âm nhạc từ gia đình với vai trò là con của nghệ sĩ Minh Trang đến sân khấu ca nhạc trong và ngoài nước cho nên, tạp ghi viết về âm nhạc là sự lựa chọn đúng. Nhà văn Phạm Xuân Đài nhận định rằng Quỳnh Giao nhờ có kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn và bằng tâm hồn mẫn cảm với âm thanh cộng với tài viết lách nên đã có thể khắc họa được từng nhân vật của thế giới âm nhạc.
Nhà văn Huy Phương, cũng là người phụ trách mục tạp ghi trên báo Người Việt, phát biểu về tác giả Quỳnh Giao và Tạp Ghi. Huy Phương kể rằng ông quen biết Quỳnh Giao từ thời ấu thơ, trên 60 năm trước, vì cùng ở Huế. Ông nói rằng chưa thấy ai là ca sĩ mà nói về văn chương lâu bền như Quỳnh Giao. Ông cho rằng viết tạp ghi không dễ tí nào cả, bởi vì phải viết đều đặn để đúng ngày giờ cho số báo. Ông nêu ra 2 điểm độc đáo của Quỳnh Giao là người sinh trưởng ở Huế mà không biết nói giọng Huế và có tính ca sĩ mạnh hơn nhà văn.
Trong phần phát biểu, nhà văn Nguyễn Đình Toàn kể lại mối giao tình và quen biết Quỳnh Giao qua gia đình của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước. Theo nhà văn Nguyễn Đình Toàn, trong Tạp Ghi, Quỳnh Giao đề cập đến nhiều vấn đề chứ không phải chỉ là âm nhạc, dù âm nhạc được nói đến nhiều nhất. Nhà văn Nguyễn Đình Toàn cũng nhân đấy kể một vài kỷ niệm mà ông có với Quỳnh Giao trong vòng 40, 50 năm nay. Nhà văn Nguyễn Đình Toàn kết thúc phần phát biểu bằng một khẳng định rằng Quỳnh Giao viết hay hơn là hát.
Kịch sĩ Lê Tuấn, trong lời phát biểu cho biết ông nghe Quỳnh Giao hát từ lúc còn bé và ông cũng đã đọc 40, 50 bài viết của Quỳnh Giao trước khi đọc Tạp Ghi này. Ông cho rằng trong Tạp Ghi, Quỳnh Giao rất cẩn trong trong từng chữ, từng câu. Ông nói rằng sách của Quỳnh Giao kén người đọc cũng giống như nhạc Quỳnh Giao kén người nghe vậy.
Quỳnh Giao, trong phần phát biểu cảm tưởng với tư cách là tác giả của Tạp Ghi, đã trịnh trọng bày tỏ niềm biết ơn sâu xa và kính dâng tác phẩm cho thân phụ là Cụ Ưng Quả, thân mẫu là cụ Minh Trang, và kế phụ là nhạc sĩ Dương Thiệu Tước vì nhờ huyết thống tinh tuý của cha mẹ mà bà có được cái tên Quỳnh Giao như hôm nay. Quỳnh Giao cũng nói lời cám ơn đến các diễn giả, các đồng nghiệp ca sĩ, tòa soạn báo Người Việt, phu quân Nguyễn Xuân Nghĩa, và tất cả bằng hữu đã đến tham dự buổi ra mắt Tạp Ghi.
Sau cùng, như thay cho lời cám ơn bằng hành động quý giá, Quỳnh Giao đã mời ca sĩ Kim Tước, Mai Hương, là 3 ca sĩ trong Ban Nhạc Tiếng Tơ Đồng lên sân khấu để trình bày ca khúc Hình Ảnh Một Đêm Trăng, nhạc của Văn Phụng.
Nhà văn Phạm Xuân Đài, Chủ Bút Tạp Chí Thế Kỷ 21, trong phần giới thiệu cuốn Tạp Ghi Quỳnh Giao, nói rằng độc giả có cảm nhận khác nhau khi đọc những bài tạp ghi hàng tuần trên Nhật Báo Người Việt với đọc cuốn sách. Theo nhà văn Phạm Xuân Đài cuốn Tạp Ghi này viết về âm nhạc. Nhà văn Phạm Xuân Đài cho rằng Quỳnh Giao được sống và trưởng thành trong môi trường âm nhạc từ gia đình với vai trò là con của nghệ sĩ Minh Trang đến sân khấu ca nhạc trong và ngoài nước cho nên, tạp ghi viết về âm nhạc là sự lựa chọn đúng. Nhà văn Phạm Xuân Đài nhận định rằng Quỳnh Giao nhờ có kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn và bằng tâm hồn mẫn cảm với âm thanh cộng với tài viết lách nên đã có thể khắc họa được từng nhân vật của thế giới âm nhạc.
Nhà văn Huy Phương, cũng là người phụ trách mục tạp ghi trên báo Người Việt, phát biểu về tác giả Quỳnh Giao và Tạp Ghi. Huy Phương kể rằng ông quen biết Quỳnh Giao từ thời ấu thơ, trên 60 năm trước, vì cùng ở Huế. Ông nói rằng chưa thấy ai là ca sĩ mà nói về văn chương lâu bền như Quỳnh Giao. Ông cho rằng viết tạp ghi không dễ tí nào cả, bởi vì phải viết đều đặn để đúng ngày giờ cho số báo. Ông nêu ra 2 điểm độc đáo của Quỳnh Giao là người sinh trưởng ở Huế mà không biết nói giọng Huế và có tính ca sĩ mạnh hơn nhà văn.
Trong phần phát biểu, nhà văn Nguyễn Đình Toàn kể lại mối giao tình và quen biết Quỳnh Giao qua gia đình của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước. Theo nhà văn Nguyễn Đình Toàn, trong Tạp Ghi, Quỳnh Giao đề cập đến nhiều vấn đề chứ không phải chỉ là âm nhạc, dù âm nhạc được nói đến nhiều nhất. Nhà văn Nguyễn Đình Toàn cũng nhân đấy kể một vài kỷ niệm mà ông có với Quỳnh Giao trong vòng 40, 50 năm nay. Nhà văn Nguyễn Đình Toàn kết thúc phần phát biểu bằng một khẳng định rằng Quỳnh Giao viết hay hơn là hát.
Kịch sĩ Lê Tuấn, trong lời phát biểu cho biết ông nghe Quỳnh Giao hát từ lúc còn bé và ông cũng đã đọc 40, 50 bài viết của Quỳnh Giao trước khi đọc Tạp Ghi này. Ông cho rằng trong Tạp Ghi, Quỳnh Giao rất cẩn trong trong từng chữ, từng câu. Ông nói rằng sách của Quỳnh Giao kén người đọc cũng giống như nhạc Quỳnh Giao kén người nghe vậy.
Quỳnh Giao, trong phần phát biểu cảm tưởng với tư cách là tác giả của Tạp Ghi, đã trịnh trọng bày tỏ niềm biết ơn sâu xa và kính dâng tác phẩm cho thân phụ là Cụ Ưng Quả, thân mẫu là cụ Minh Trang, và kế phụ là nhạc sĩ Dương Thiệu Tước vì nhờ huyết thống tinh tuý của cha mẹ mà bà có được cái tên Quỳnh Giao như hôm nay. Quỳnh Giao cũng nói lời cám ơn đến các diễn giả, các đồng nghiệp ca sĩ, tòa soạn báo Người Việt, phu quân Nguyễn Xuân Nghĩa, và tất cả bằng hữu đã đến tham dự buổi ra mắt Tạp Ghi.
Sau cùng, như thay cho lời cám ơn bằng hành động quý giá, Quỳnh Giao đã mời ca sĩ Kim Tước, Mai Hương, là 3 ca sĩ trong Ban Nhạc Tiếng Tơ Đồng lên sân khấu để trình bày ca khúc Hình Ảnh Một Đêm Trăng, nhạc của Văn Phụng.
Quỳnh Giao ký tặng sách
Nhà báo Nguyễn Xuân Nghĩa, phu quân của ca sĩ Quỳnh Giao, mở đầu buổi ra mắt sách với lời tâm tình ...
Quỳnh Giao và nhà văn Doãn Quốc Sỹ
Mai Hương, Lê Tuấn, Qùynh Giao ... Quang cảnh buổi ra mắt sách
Vài bài viết tạp ghi của Quỳnh Giao
Memories của Lê Văn Khoa - Quỳnh Giao
Khi Việt Nam gặp Ukraine thì chúng ta có gì?
Một món quà Giáng Sinh ý nghĩa nhất từ nhiều thập niên. Món quà ấy là đĩa nhạc Memories nhạc sĩ Lê Văn Khoa sẽ cho ra mắt.
Với những ai thật sự yêu âm nhạc, Lê Văn Khoa không là người xa lạ. Với người khó tính và còn ước mơ một tương lai tươi sáng hơn cho nền nhạc Việt, những nỗ lực của Lê Văn Khoa từ nhiều năm qua là một niềm hy vọng. Ông cố bơi ngược dòng để đưa nhạc Việt ra khỏi lối mòn và có thể hoà chung vào dòng nhạc thế giới.
Từ một phương trời rất xa và lạ, một số nhạc sĩ Ukraine được nghe nhạc Lê Văn Khoa. Họ bèn tìm đến nhau, kết quả là một đĩa nhạc độc đáo được thực hiện tại thủ đô Kyiv (Kiev) của xứ Ukraine với dàn nhạc đại hoà tấu Kyiv Symphony Orchestra, dưới dự điều khiển của nữ nhạc trưởng Alla Kulbaba. Một dàn nhạc Ukraine cùng những tay độc tấu vĩ cầm, dương cầm, trung hồ cầm và sáo, có thực tài để trình bày các nhạc khúc của một nghệ sĩ Việt Nam.
Sự kiện ấy cũng đã là hiếm hoi độc đáo.
Chúng ta từng nghe vài nhạc sĩ Nga trình tấu giai điệu của các ca khúc phổ thông của Việt Nam và nếu yêu nhạc thì đâm ra nghi ngờ giá trị nghệ thuật của lối hội ngộ độc đáo ấy. Trường hợp của đĩa nhạc Memories và Lê Văn Khoa thì khác. Ông có mặt tại Kyiv và hợp tác trong từng bước thực hiện với những nhạc sĩ có chân tài của Ukraine nên sự cảm thông tất nhiên đã có giữa người soạn nhạc và các nghệ sĩ trình tấu.
Chẳng những có sự cảm thông giữa các nghệ sĩ mà còn có sự thông cảm của những người cùng chia sẻ hoàn cảnh là có lòng yêu nhạc vô biên nhưng bị trói buộc bởi hoàn cảnh. Họ muốn thực hiện một tác phẩm chung vì nghệ thuật hơn là vì nhu cầu thương mại.
Kết quả là một bài ngợi ca âm nhạc thật đẹp, trải trên 10 nhạc khúc mà bài nào cũng làm người nghe bồi hồi xúc động.
Với loại nhạc "không lời", giá trị tác phẩm nằm trong khả năng gợi ý hơn là phải được nâng đỡ hay diễn giải bằng lời ca, lời từ. Những ai chưa mấy quen thuộc với loại nhạc cổ điển không lời thì sẽ thích thú nhận ra giai điệu quen thuộc ở bài ngắn nhất, bài số 7, có tên là Song of the Black Horse.
Kỳ thú là tiếng dương cầm khúc khích và khốc khách như tiếng nhạc ngựa tung tăng. Lý Ngựa Ô của Lê Văn Khoa còn tối tân hơn vậy. Đây là nhạc khúc ông soạn lại cho hai dương cầm thủ. Bốn tay đan lượn trên phím đàn đã mở ra không gian mới cho một giai điệu dân ca quen thuộc của miền Nam.
Hai diệu thủ dương cầm Irina Starodub và Lyudmila Chichuck là những người tuyệt vời. Nghe kỹ thì hiểu vì sao họ đã đoạt những giải thưởng cao quý nhất về nhạc của Ukraine. Hai cô là bậc thầy về nghệ thuật trình tấu. Trong tiếng cóc cách của vó ngựa, họ không lạm dụng pedale, không đạp để gây... "ấn tượng" "hoành tráng" - những từ đang bị lạm dung đến thành vô nghĩa.
Họ chỉ nhấp rất nhẹ và diễn tả đúng ý soạn giả khó tính là Lê Văn Khoa.
Sau khi "làm quen" với loại nhạc không cần lời mà vẫn có hình ảnh đầy âm sắc, mình nên nghe một giai điệu dân ca miền Bắc qua bài Beautiful Bamboo, bài số ba theo thứ tự. Cây Trúc Xinh trong nét ngũ cung được độc tấu dương cầm. Hoàn toàn Việt Nam mà mới lạ chừng nào. Đây là phút "ừ nhỉ" của chúng ta. Ừ nhỉ, nhạc Việt Nam mình hay vậy mà xưa nay chỉ chú ý tới lời mà không cần nhớ đến cung bậc.
Qua tác phẩm số chín, bài In the Moonlight, mình mới phát giác thêm những nét đẹp ẩn giấu như ngọc của nhạc Việt. Ngũ cung của dân ca Việt Nam, theo điệu "oán" của miền Nam, trong tiếng sáo vi vu của đồng quê nước ta lại cất lên như vậy. Đêm trăng của quê nhà có những nét đẹp kỳ lạ và khác hẳn những gì mình đã từng nghe hay còn nhớ...
Mười hai năm trước, kỷ niệm hai chục năm sau biến cố bi thương của Việt Nam, Lê Văn Khoa đã làm điều kỳ lạ là dùng nhạc diễn tả mấy chục năm chinh chiến của quê hương. Đó là Tổ khúc "1975", được trình bày lần đầu năm 1995 tại miền Nam California. Từ đó, Lê Văn Khoa vẫn lặng lẽ đi tiếp.
Đĩa nhạc Memories là công trình của chuyến độc hành ấy.
Sau khi đã nghe lại giai điệu dân ca của Việt Nam để làm quen với một lối trình bày khác, mình hãy cùng bước vào thế giới âm nhạc của Lê Văn Khoa, qua những sáng tác của ông trong tác phẩm Memories này.
Bài đầu tiên là Remembrance với cả dàn nhạc và dương cầm Lyudmila Chichuck.
Mở đầu là nét Á Đông trên cung thứ buồn bã, tha thiết theo nhịp 3/4, rồi chuyển lên cung trưởng, trong sáng linh động, trước khi trở lại nỗi day dứt ban đầu. Âm nhạc là ngôn ngữ trừu tượng, nhạc khúc Remembrance dùng âm thanh vẽ ra cây cầu vồng từ chân mây u uẩn vươn tới trời cao với muôn màu hội ngộ và chìm dần như tiếng tơ trong nhớ thương luyến tiếc.
Bài thứ hai, Nocturne, có giai điệu Tây phương hơn và đòi hỏi kỹ thuật trình bày còn ráo riết hơn. Lê Văn Khoa diễn tả đêm đen đặc quánh bằng phím nhạc dương cầm và chuyển lên cung trưởng đầy kỹ thuật trong tiếng đuổi bắt âm thanh. Trong đêm đen, mọi thứ tưởng như lắng đọng, chỉ có tâm tư của người nghệ sĩ còn day dứt và sôi nổi với trăm ngàn hình ảnh. Bài Dạ Khúc của Lê Văn Khoa là tiếng nhạc của một đêm không ngủ. Đêm không đen, chúng ta không cô đơn vì tâm trí vẫn dồn dập trăm ý.
Bài thứ tư, Longing, là nhạc khúc lãng mạn diễn tả bằng trung hồ cầm và dương cầm với tiếng đàn dây gởi lên nỗi bâng khuâng lưu luyến nối tiếp trên cung trưởng của tiếng dương cầm reo vui. Rồi tan loãng dần trong giai điệu ban đầu, như một niềm hy vọng.
Bài On the Way Home, nhạc khúc thứ năm, chắc sẽ chinh phục thính giả Tây phương.
Đây là tác phẩm nhiều hình ảnh và màu sắc được viết như một bản "song ca" của hai tay dương cầm. Một đối thoại bằng nhạc của hai người. Họ đối thoại về cuộc đời, việc đồng áng, về những gian nan của nhân thế. Tiếng nhạc mở đầu chập chờn rồi dồn dập như đời sống, nhưng trong sự lầm than u uẩn đã có nguồn hy vọng. Nên nghe lại bài này nhiều lần, rồi mình sẽ cảm tạ sự sáng tạo của Lê Văn Khoa.
Khuôn khổ "Tạp ghi" này không cho phép người viết giới thiệu lại từng bài của đĩa nhạc. Vả lại, khi âm nhạc là thông điệp trừu tượng thì mỗi người nghe lại cảm thấy một khác tùy tâm cảnh của mình. Nhưng người yêu nhạc thì có thể yên tâm rằng đĩa Memories của Lê Văn Khoa là tác phẩm có giá trị, do những người có thực tài thực hiện cho chúng ta.
Người viết thì yêu thích nhất các bài Remembrance, On the Way Home, Romance và In the Moonlight, và muốn bày tỏ sự khâm phục trân quý dành cho tác giả.
Trong một thế giới ồn ào, với nhiều người đang cố hét rất nhiều và gào rất lớn để hát lên lắm ca khúc vô nghĩa nếu không có ánh sáng sân khấu thì loại nhạc của Lê Văn Khoa có sự cô đơn đáng kính của người nghệ sĩ không tìm đám đông. Ông đi tìm nghệ thuật và đã thấy. Rồi gặp nhiều nhạc sĩ có tài của một xứ Ukraine mờ mịt bên kia đại dương để thực hiện cho chúng ta một đĩa nhạc hay.
Chúng ta nên trân quý những người như vậy, và nên giới thiệu cho bằng hữu thẩm âm một tác phẩm khiến mình bớt tuyệt vọng về trình độ nghệ thuật nước nhà.
Qua Lê Văn Khoa, cũng xin được gửi đến các nhạc sĩ cùng dàn nhạc đại hoà tấu của Ukraine một lời tri ân.
Một món quà Giáng Sinh ý nghĩa nhất từ nhiều thập niên. Món quà ấy là đĩa nhạc Memories nhạc sĩ Lê Văn Khoa sẽ cho ra mắt.
Với những ai thật sự yêu âm nhạc, Lê Văn Khoa không là người xa lạ. Với người khó tính và còn ước mơ một tương lai tươi sáng hơn cho nền nhạc Việt, những nỗ lực của Lê Văn Khoa từ nhiều năm qua là một niềm hy vọng. Ông cố bơi ngược dòng để đưa nhạc Việt ra khỏi lối mòn và có thể hoà chung vào dòng nhạc thế giới.
Từ một phương trời rất xa và lạ, một số nhạc sĩ Ukraine được nghe nhạc Lê Văn Khoa. Họ bèn tìm đến nhau, kết quả là một đĩa nhạc độc đáo được thực hiện tại thủ đô Kyiv (Kiev) của xứ Ukraine với dàn nhạc đại hoà tấu Kyiv Symphony Orchestra, dưới dự điều khiển của nữ nhạc trưởng Alla Kulbaba. Một dàn nhạc Ukraine cùng những tay độc tấu vĩ cầm, dương cầm, trung hồ cầm và sáo, có thực tài để trình bày các nhạc khúc của một nghệ sĩ Việt Nam.
Sự kiện ấy cũng đã là hiếm hoi độc đáo.
Chúng ta từng nghe vài nhạc sĩ Nga trình tấu giai điệu của các ca khúc phổ thông của Việt Nam và nếu yêu nhạc thì đâm ra nghi ngờ giá trị nghệ thuật của lối hội ngộ độc đáo ấy. Trường hợp của đĩa nhạc Memories và Lê Văn Khoa thì khác. Ông có mặt tại Kyiv và hợp tác trong từng bước thực hiện với những nhạc sĩ có chân tài của Ukraine nên sự cảm thông tất nhiên đã có giữa người soạn nhạc và các nghệ sĩ trình tấu.
Chẳng những có sự cảm thông giữa các nghệ sĩ mà còn có sự thông cảm của những người cùng chia sẻ hoàn cảnh là có lòng yêu nhạc vô biên nhưng bị trói buộc bởi hoàn cảnh. Họ muốn thực hiện một tác phẩm chung vì nghệ thuật hơn là vì nhu cầu thương mại.
Kết quả là một bài ngợi ca âm nhạc thật đẹp, trải trên 10 nhạc khúc mà bài nào cũng làm người nghe bồi hồi xúc động.
Với loại nhạc "không lời", giá trị tác phẩm nằm trong khả năng gợi ý hơn là phải được nâng đỡ hay diễn giải bằng lời ca, lời từ. Những ai chưa mấy quen thuộc với loại nhạc cổ điển không lời thì sẽ thích thú nhận ra giai điệu quen thuộc ở bài ngắn nhất, bài số 7, có tên là Song of the Black Horse.
Kỳ thú là tiếng dương cầm khúc khích và khốc khách như tiếng nhạc ngựa tung tăng. Lý Ngựa Ô của Lê Văn Khoa còn tối tân hơn vậy. Đây là nhạc khúc ông soạn lại cho hai dương cầm thủ. Bốn tay đan lượn trên phím đàn đã mở ra không gian mới cho một giai điệu dân ca quen thuộc của miền Nam.
Hai diệu thủ dương cầm Irina Starodub và Lyudmila Chichuck là những người tuyệt vời. Nghe kỹ thì hiểu vì sao họ đã đoạt những giải thưởng cao quý nhất về nhạc của Ukraine. Hai cô là bậc thầy về nghệ thuật trình tấu. Trong tiếng cóc cách của vó ngựa, họ không lạm dụng pedale, không đạp để gây... "ấn tượng" "hoành tráng" - những từ đang bị lạm dung đến thành vô nghĩa.
Họ chỉ nhấp rất nhẹ và diễn tả đúng ý soạn giả khó tính là Lê Văn Khoa.
Sau khi "làm quen" với loại nhạc không cần lời mà vẫn có hình ảnh đầy âm sắc, mình nên nghe một giai điệu dân ca miền Bắc qua bài Beautiful Bamboo, bài số ba theo thứ tự. Cây Trúc Xinh trong nét ngũ cung được độc tấu dương cầm. Hoàn toàn Việt Nam mà mới lạ chừng nào. Đây là phút "ừ nhỉ" của chúng ta. Ừ nhỉ, nhạc Việt Nam mình hay vậy mà xưa nay chỉ chú ý tới lời mà không cần nhớ đến cung bậc.
Qua tác phẩm số chín, bài In the Moonlight, mình mới phát giác thêm những nét đẹp ẩn giấu như ngọc của nhạc Việt. Ngũ cung của dân ca Việt Nam, theo điệu "oán" của miền Nam, trong tiếng sáo vi vu của đồng quê nước ta lại cất lên như vậy. Đêm trăng của quê nhà có những nét đẹp kỳ lạ và khác hẳn những gì mình đã từng nghe hay còn nhớ...
Mười hai năm trước, kỷ niệm hai chục năm sau biến cố bi thương của Việt Nam, Lê Văn Khoa đã làm điều kỳ lạ là dùng nhạc diễn tả mấy chục năm chinh chiến của quê hương. Đó là Tổ khúc "1975", được trình bày lần đầu năm 1995 tại miền Nam California. Từ đó, Lê Văn Khoa vẫn lặng lẽ đi tiếp.
Đĩa nhạc Memories là công trình của chuyến độc hành ấy.
Sau khi đã nghe lại giai điệu dân ca của Việt Nam để làm quen với một lối trình bày khác, mình hãy cùng bước vào thế giới âm nhạc của Lê Văn Khoa, qua những sáng tác của ông trong tác phẩm Memories này.
Bài đầu tiên là Remembrance với cả dàn nhạc và dương cầm Lyudmila Chichuck.
Mở đầu là nét Á Đông trên cung thứ buồn bã, tha thiết theo nhịp 3/4, rồi chuyển lên cung trưởng, trong sáng linh động, trước khi trở lại nỗi day dứt ban đầu. Âm nhạc là ngôn ngữ trừu tượng, nhạc khúc Remembrance dùng âm thanh vẽ ra cây cầu vồng từ chân mây u uẩn vươn tới trời cao với muôn màu hội ngộ và chìm dần như tiếng tơ trong nhớ thương luyến tiếc.
Bài thứ hai, Nocturne, có giai điệu Tây phương hơn và đòi hỏi kỹ thuật trình bày còn ráo riết hơn. Lê Văn Khoa diễn tả đêm đen đặc quánh bằng phím nhạc dương cầm và chuyển lên cung trưởng đầy kỹ thuật trong tiếng đuổi bắt âm thanh. Trong đêm đen, mọi thứ tưởng như lắng đọng, chỉ có tâm tư của người nghệ sĩ còn day dứt và sôi nổi với trăm ngàn hình ảnh. Bài Dạ Khúc của Lê Văn Khoa là tiếng nhạc của một đêm không ngủ. Đêm không đen, chúng ta không cô đơn vì tâm trí vẫn dồn dập trăm ý.
Bài thứ tư, Longing, là nhạc khúc lãng mạn diễn tả bằng trung hồ cầm và dương cầm với tiếng đàn dây gởi lên nỗi bâng khuâng lưu luyến nối tiếp trên cung trưởng của tiếng dương cầm reo vui. Rồi tan loãng dần trong giai điệu ban đầu, như một niềm hy vọng.
Bài On the Way Home, nhạc khúc thứ năm, chắc sẽ chinh phục thính giả Tây phương.
Đây là tác phẩm nhiều hình ảnh và màu sắc được viết như một bản "song ca" của hai tay dương cầm. Một đối thoại bằng nhạc của hai người. Họ đối thoại về cuộc đời, việc đồng áng, về những gian nan của nhân thế. Tiếng nhạc mở đầu chập chờn rồi dồn dập như đời sống, nhưng trong sự lầm than u uẩn đã có nguồn hy vọng. Nên nghe lại bài này nhiều lần, rồi mình sẽ cảm tạ sự sáng tạo của Lê Văn Khoa.
Khuôn khổ "Tạp ghi" này không cho phép người viết giới thiệu lại từng bài của đĩa nhạc. Vả lại, khi âm nhạc là thông điệp trừu tượng thì mỗi người nghe lại cảm thấy một khác tùy tâm cảnh của mình. Nhưng người yêu nhạc thì có thể yên tâm rằng đĩa Memories của Lê Văn Khoa là tác phẩm có giá trị, do những người có thực tài thực hiện cho chúng ta.
Người viết thì yêu thích nhất các bài Remembrance, On the Way Home, Romance và In the Moonlight, và muốn bày tỏ sự khâm phục trân quý dành cho tác giả.
Trong một thế giới ồn ào, với nhiều người đang cố hét rất nhiều và gào rất lớn để hát lên lắm ca khúc vô nghĩa nếu không có ánh sáng sân khấu thì loại nhạc của Lê Văn Khoa có sự cô đơn đáng kính của người nghệ sĩ không tìm đám đông. Ông đi tìm nghệ thuật và đã thấy. Rồi gặp nhiều nhạc sĩ có tài của một xứ Ukraine mờ mịt bên kia đại dương để thực hiện cho chúng ta một đĩa nhạc hay.
Chúng ta nên trân quý những người như vậy, và nên giới thiệu cho bằng hữu thẩm âm một tác phẩm khiến mình bớt tuyệt vọng về trình độ nghệ thuật nước nhà.
Qua Lê Văn Khoa, cũng xin được gửi đến các nhạc sĩ cùng dàn nhạc đại hoà tấu của Ukraine một lời tri ân.
Ðường Chiều Lá Rụng - Quỳnh Giao
Một buổi chiều cuối năm, chúng tôi cùng hát với nhau dù chỉ được một phần cả Ngàn Lời Ca của Phạm Duy. Trong có 24 tiếng để anh chị em tổ chức một buổi sinh hoạt impromtu mà trang nghiêm, Quỳnh Giao nhận lời hát Kỷ Niệm và Ðường Chiều Lá Rụng.
Kỷ Niệm là ca khúc vừa sáng tác xong là Phạm Duy đưa cho con bé (Quỳnh Giao) hát trên đài phát thanh. Hơn hai chục năm sau đó, khi mình còn ở miền Ðông và thực hiện lấy băng nhạc Hát Cho Kỷ Niệm theo lối thủ công nghệ, ông cẩn thận gửi lời giới thiệu qua một cassette. Ðấy là kỷ niệm khó phai, nghe lại là nhạt nhòa nước mắt.
Còn Ðường Chiều Lá Rụng là một dấu ấn khác của Phạm Duy, được ông viết khi còn trẻ, vào năm 1965, căn cứ theo tập nhạc “Hát vào Ðời” xuất bản năm 1969. Nhưng trong cuốn “Ngàn Lời Ca,” thì ông viết từ năm 1958, sau khi đi du học bên Pháp về. Ðiều này có lẽ cũng đúng, vì ông đã dùng những điều học được áp dụng cho ca khúc. Ðây là bài hát có nhạc thuật cao nhất của ông, với nét ngũ cung u uẩn và những chuyển đoạn liên tục, vừa khó hát, khó nghe và khó hòa âm.
Một buổi chiều cuối năm, chúng tôi cùng hát với nhau dù chỉ được một phần cả Ngàn Lời Ca của Phạm Duy. Trong có 24 tiếng để anh chị em tổ chức một buổi sinh hoạt impromtu mà trang nghiêm, Quỳnh Giao nhận lời hát Kỷ Niệm và Ðường Chiều Lá Rụng.
Kỷ Niệm là ca khúc vừa sáng tác xong là Phạm Duy đưa cho con bé (Quỳnh Giao) hát trên đài phát thanh. Hơn hai chục năm sau đó, khi mình còn ở miền Ðông và thực hiện lấy băng nhạc Hát Cho Kỷ Niệm theo lối thủ công nghệ, ông cẩn thận gửi lời giới thiệu qua một cassette. Ðấy là kỷ niệm khó phai, nghe lại là nhạt nhòa nước mắt.
Còn Ðường Chiều Lá Rụng là một dấu ấn khác của Phạm Duy, được ông viết khi còn trẻ, vào năm 1965, căn cứ theo tập nhạc “Hát vào Ðời” xuất bản năm 1969. Nhưng trong cuốn “Ngàn Lời Ca,” thì ông viết từ năm 1958, sau khi đi du học bên Pháp về. Ðiều này có lẽ cũng đúng, vì ông đã dùng những điều học được áp dụng cho ca khúc. Ðây là bài hát có nhạc thuật cao nhất của ông, với nét ngũ cung u uẩn và những chuyển đoạn liên tục, vừa khó hát, khó nghe và khó hòa âm.
Năm đó, khi vừa ráo mực, ông đưa tác phẩm cho nhạc sĩ Vũ Thành. Là trưởng phòng văn nghệ của đài Phát Thanh Sài Gòn và trưởng ban nhạc đại hòa tấu và hợp xướng Phương Hoa, Vũ Thành cũng cộng tác với đài Tiếng Nói Tự Do của Hoa Kỳ, chuyên phát các chương trình ra miền Bắc. Nổi tiếng khó tính, Vũ Thành lưỡng lự khi soạn hòa âm, vì Ðường Chiều Lá Rụng không dễ viết.
Nguyên tác của Phạm Duy là nhịp ý dìu dặt thiết tha trên ton Si thứ với nhiều quãng năm giảm (quinte diminué) làm nhiều ca sĩ trẹo lưỡi. Hát đúng giọng thì phải xuống nốt Fa thăng thấp (dưới hàng kẻ ba dòng) và lên nốt Fa thăng cao nhất (dòng kẻ thứ năm). Vũ Thành sửa lại, dùng nhịp 4/4 theo lối chậm rãi kể lể của một bản Slow và viết nhiều nốt liên ba (triolet) trong toàn bài, rồi còn hạ một cung, tức là ton La thứ. Viết xong, Vũ Thành quyết định thu thanh cho chương trình của đài Tiếng Nói Tự Do để phát ra Bắc, và vì thế trong Nam mình không được nghe.
Ông chọn Thái Thanh để trình bày tác phẩm bất hủ này. Ðấy là một chọn lựa tuyệt vời.
Thường ngày Thái Thanh vẫn nổi tiếng là cường điệu. Bà làm cho ca khúc thổn thức rũ rượi hơn và nồng nàn hơn nguyên bản. Nhưng với Ðường Chiều Lá Rụng qua hòa âm Vũ Thành thì mọi lối quằn quại điệu nghệ bỗng nhiên biến mất. Bài hát quá khó, khiến bà phải cẩn trọng từng chữ, hát sai và không theo dàn nhạc thì Vũ Thành “quạt” ngay, chẳng nể nang ai cả!
Thái Thanh hát nghiêm chỉnh, lại có cả dàn phụ họa của Anh Ngọc, Nhật Bằng, Phượng Bằng, Kim Tước, Mai Hương và Quỳnh Giao nữa, nên ca khúc là một tuyệt chiêu.
*
Như có lần người viết đã kể, khi di tản năm 1975, tài sản duy nhất được Vũ Thành đem theo là một số băng ghi âm các ca khúc quý giá ông làm cho đài Tiếng Nói Tự Do. Trong đó có Ðường Chiều Lá Rụng.
Tại hải ngoại, khi thực hiện đĩa nhạc thứ hai với tên Tiếng Chuông Chiều Thu, Quỳnh Giao chọn Ðường Chiều Lá Rụng vì yêu mến tác phẩm trứ danh này. Nhưng đưa cho Duy Cường nghe tape nhạc Vũ Thành thì bị lắc đầu: “Em không bao giờ làm giống ai và chẳng bị ảnh hưởng của ai hết!” Ðúng quá chứ! Rồi Duy Cường cũng loay hoay mãi không viết được. Anh không chịu đổi qua nhịp Slow như Vũ Thành, dù nhịp này dễ hát hơn nhiều.
Cuối cùng Duy Cường hòa âm theo kiểu ad lib, là tự do, chẳng có nhịp gì hết.
Cái khó là xưa nay ca sĩ hát ad lib thì nhạc sĩ đệm theo, chứ bao giờ lại có sự ngược là nhạc sĩ đàn ad lib và ca sĩ phải hát theo! Cường nói: “Chỉ có chị mới hát theo dàn nhạc được, và vì chị nên em mới thử nghiệm điều này.”
Hôm thu âm tại phòng thu Tomlinson, Phạm Duy đến nghe. Cô cháu hát thử câu đầu “chiều rơi trên đường vắng có ta rơi giữa chiều” bằng hai cách. Cách thứ nhất gần giống lối diễn tả của Thái Thanh, là láy vào chữ “vắng” và chữ “rơi.” Cách thứ hai là chỉ láy vào chữ “ta” mà thôi. Và hát rất đều giọng, nghiêm trang. Phạm Duy chọn cách thứ hai. Viết lại như vậy để chúng ta hiểu ý người sáng tác.
Cho tới giờ dường như số người hát Ðường Chiều Lá Rụng chỉ đếm trên đầu ngón tay của một bàn tay. Riêng Phạm Duy thì nhắc đến ba người là Thái Thanh, Kim Tước và Quỳnh Giao. Mà người nghe chắc cũng ít. Nhạc đã thế, lời ca lại chẳng nhắm vào cảm quan mà đầy não tính...
Quỳnh Giao đã viết nhiều nên không dám nói thêm về các lời từ của Phạm Duy khi ông đưa tình yêu lên tận cõi chết. Ðường Chiều Lá Rụng là một tiêu biểu rực rỡ và rã rời nhất với hình ảnh đầy chất siêu thực. Nhưng giờ đây, khi ông đã ra đi, mà mình hát lại với nước mắt lưng tròng thì ca khúc lại tái sinh như một bức họa.
Ông chuyển cung như dùng màu sắc để đổi ánh sáng và có nhiều câu báo hiệu lối viết sẽ thấy ở Trịnh Công Sơn về sau.
Một kỷ niệm cuối là khi ghi âm bài này với hòa âm của Duy Cường, Quỳnh Giao đã ỷ vào chỗ thân tình mà xin sửa một chữ ở câu cuối! Phạm Duy nghe lại, gật gù và cho phép!
Chiều tan trên đường tối, có ta như rã rời
Hồn ta như gò mối, đang chờ phút đầu thai.
Quỳnh Giao xin phép hát là “Hồn ta như gò mối, im chờ phút đầu thai...”
Lá đã rụng, ông đã im. Chúng ta đang chờ ông trở lại.
Nghiêm Phú Phi - Bậc thầy khó quên, cái neo đã chìm - Quỳnh Giao
Năm 2008 này mở đầu với nhiều chuyện không vui.
Tin Lê Quỳnh mất làm gia đình chúng tôi bồi hồi vì nhiều kỷ niệm cùng người nghệ sĩ ấy. Trong nhà, chúng tôi nói chuyện với nhau về cô Trúc và cháu Victor, khi ấy còn rất nhỏ. Thế rồi, tin Nghiêm Phú Phi qua đời vào buổi sáng khi chuẩn bị đi dự tang lễ của Lê Quỳnh đã ập xuống như sét đánh!
Cả tuần qua, giới nghệ sĩ bàng hoàng xúc động trước tin ông qua đời. Nói là giới nghệ sĩ là nói chung, chứ những người thương tiếc ông thật ra nhiều vô kể! Từ đám sinh viên Quốc Gia Âm Nhạc ngày trước cho tới những người làm việc trong các đài phát thanh của Sàigòn. Từ nghệ sĩ tại các phòng trà trước 75, đến các nghệ sĩ trẻ, những trung tâm âm nhạc sinh hoạt ở hải ngoại... và nhất là những nhạc sinh ông đã đào tạo từ năm 1956 đến nay, trong đó có người viết bài này...
Vì vậy, lần này xin phép độc giả và thân hữu gần xa để nói chuyện riêng tư.
Ngày ấy người viết mới lên mười, được mẹ đem đến chú học đàn. Học trò thường gọi Nghiêm Phú Phi bằng thầy, chỉ duy nhất có mình gọi thầy bằng “chú”.
Chú Phi người gốc Bắc, mà nói đặc giọng Nam. Chú rất ít nói, và thường chỉ nhỏ nhẹ dạy bảo học trò cách tập, dáng ngồi... Học với ông một năm thì chuyển qua học với bà Ðỗ Thế Phiệt, là dì ruột của mình, cũng vừa về nước sau chú Phi một năm.
Hàng
tuần, người viết vẫn gặp chú trong trường nhạc và ở đài phát thanh.
Khác với các giáo sư dương cầm tốt nghiệp từ Pháp về, thường chỉ dạy đàn
trong trường nhạc và tư gia, chú Phi còn đàn trong các ban nhạc của các
đài phát thanh Quốc Gia, đài Quân Ðội, đài Tự Do và đài truyền hình...
Và hằng đêm, chú đội mũ đeo kính đen đánh đàn ở phòng trà Ðêm Mầu Hồng.
Như một nghệ sĩ trong một quán nhạc rất... Paris.
Chú Nghiêm Phú Phi không chủ trương chỉ có nhạc cổ điển mới là chính phái, mà luôn luôn coi trọng âm nhạc Việt Nam. Chú Phi tốt nghiệp về hòa âm tại Pháp, khi trở về viết hòa âm cho các bài dân ca thì đều có nét chung là rất công phu, độc đáo. Hãy nghe lại Trường Ca Mẹ Việt Nam hay Con Ðường Cái Quan của Phạm Duy do Nghiêm Phú Phi hòa âm, chúng ta mới thấy thế nào là nghệ thuật hòa âm đã chắp cánh cho âm nhạc.
Tuy bận rộn với thời khóa biểu như con thoi, chú Phi còn là nhạc trưởng ban đại hòa tấu và hợp xướng Hải Sơn của đài phát thanh Quốc Gia. Ông vừa viết hòa âm vừa làm nhạc trưởng. Ngày ấy, Quỳnh Giao mới chỉ mười sáu, hàng tuần ngóng giờ lên đài hát ban Hải Sơn với các cô chú và anh chị. Là người nhỏ nhất trong ban lại được chú giao cho những bài hợp ca, bè hai, bè ba rất khó. Hát ban Hải Sơn là một niềm vui kỳ lạ vì phần hòa âm thật công phu, dàn nhạc lớn với cả chục vĩ cầm.
Những trường ca như Con Ðường Cái Quan của Phạm Duy hay Hội Trùng Dương của Phạm Ðình Chương thì phải là hòa âm của Nghiêm Phú Phi mới phát huy hết nghệ thuật của tác giả, khiến người nghe thấy được sự hùng vĩ tuyệt vời của đất nước.
Cũng tại đài phát thanh Quốc Gia, ngày ấy có một nữ xướng ngôn viên xinh đẹp, giọng Nam vô cùng gợi cảm, được mời riêng để giới thiệu trong các chương trình ca nhạc. Nữ xướng ngôn viên khác thì đọc tin tức, chứ riêng Ngọc Sương được đề cử giới thiệu nhạc. Hàng ngày, cô đến đọc lời giới thiệu các chương trình nhạc trong đó có ban Hải Sơn. Và, con người ít nói ở trên kia để ý đến cô lúc nào, trong đài chả ai là không biết.
Nhưng với tính ít nói đã thành thần thoại, chú Phi tỏ tình thế nào thì các danh tài cùng thời như Mộc Lan, Châu Hà hay Anh Ngọc đều thắc mắc. Họ đố nhau xem bao giờ cá cắn câu! Mà thắc mắc cũng dễ hiểu, vì cô Sương xinh đẹp nên lúc ấy có rất nhiều người theo đuổi. Sau cùng, con người ít nói ấy đã thắng tất cả các đối thủ!
Khi nhạc sư Ðỗ Thế Phiệt qua đời năm 1970, chú Phi thay thế chức vụ giám đốc trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ và tại chức cho tới khi tan hàng năm 1975. Ông và gia đình kẹt lại đến năm 1985 mới sang Mỹ định cư.
Những người bạn cùng chia sẻ năm tháng thê lương ấy đều có chung một kinh nghiệm: Nghiêm Phú Phi là người chừng mực và nghiêm túc nhất. Ông nghe tất cả mọi đài phát thanh quốc tế và ghi âm hàng đêm! Có tin đồn gì về tin tức từ bên ngoài thì đạp xe tới hỏi ông là rõ. Có hay không, đúng hay sai, ông Phi là người mà mình có thể kiểm chứng vì nghe và nhớ hết! Trong cảnh tù đầy chung, khung cửa sổ ra thế giới bên ngoài là Nghiêm Phú Phi! Một người khác nay cũng vừa hội ngộ với chú Phi ở cõi bên kia là nhạc sĩ Lê Thương.
Hãy nhớ lại Sàigòn tang thương sau 1975 để nhớ đến những người nghệ sĩ này, với cái tai được đào tạo để nghe những gì tốt đẹp nhất của con người! Thương lắm!
Chú Nghiêm Phú Phi không chủ trương chỉ có nhạc cổ điển mới là chính phái, mà luôn luôn coi trọng âm nhạc Việt Nam. Chú Phi tốt nghiệp về hòa âm tại Pháp, khi trở về viết hòa âm cho các bài dân ca thì đều có nét chung là rất công phu, độc đáo. Hãy nghe lại Trường Ca Mẹ Việt Nam hay Con Ðường Cái Quan của Phạm Duy do Nghiêm Phú Phi hòa âm, chúng ta mới thấy thế nào là nghệ thuật hòa âm đã chắp cánh cho âm nhạc.
Tuy bận rộn với thời khóa biểu như con thoi, chú Phi còn là nhạc trưởng ban đại hòa tấu và hợp xướng Hải Sơn của đài phát thanh Quốc Gia. Ông vừa viết hòa âm vừa làm nhạc trưởng. Ngày ấy, Quỳnh Giao mới chỉ mười sáu, hàng tuần ngóng giờ lên đài hát ban Hải Sơn với các cô chú và anh chị. Là người nhỏ nhất trong ban lại được chú giao cho những bài hợp ca, bè hai, bè ba rất khó. Hát ban Hải Sơn là một niềm vui kỳ lạ vì phần hòa âm thật công phu, dàn nhạc lớn với cả chục vĩ cầm.
Những trường ca như Con Ðường Cái Quan của Phạm Duy hay Hội Trùng Dương của Phạm Ðình Chương thì phải là hòa âm của Nghiêm Phú Phi mới phát huy hết nghệ thuật của tác giả, khiến người nghe thấy được sự hùng vĩ tuyệt vời của đất nước.
Cũng tại đài phát thanh Quốc Gia, ngày ấy có một nữ xướng ngôn viên xinh đẹp, giọng Nam vô cùng gợi cảm, được mời riêng để giới thiệu trong các chương trình ca nhạc. Nữ xướng ngôn viên khác thì đọc tin tức, chứ riêng Ngọc Sương được đề cử giới thiệu nhạc. Hàng ngày, cô đến đọc lời giới thiệu các chương trình nhạc trong đó có ban Hải Sơn. Và, con người ít nói ở trên kia để ý đến cô lúc nào, trong đài chả ai là không biết.
Nhưng với tính ít nói đã thành thần thoại, chú Phi tỏ tình thế nào thì các danh tài cùng thời như Mộc Lan, Châu Hà hay Anh Ngọc đều thắc mắc. Họ đố nhau xem bao giờ cá cắn câu! Mà thắc mắc cũng dễ hiểu, vì cô Sương xinh đẹp nên lúc ấy có rất nhiều người theo đuổi. Sau cùng, con người ít nói ấy đã thắng tất cả các đối thủ!
Khi nhạc sư Ðỗ Thế Phiệt qua đời năm 1970, chú Phi thay thế chức vụ giám đốc trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ và tại chức cho tới khi tan hàng năm 1975. Ông và gia đình kẹt lại đến năm 1985 mới sang Mỹ định cư.
Những người bạn cùng chia sẻ năm tháng thê lương ấy đều có chung một kinh nghiệm: Nghiêm Phú Phi là người chừng mực và nghiêm túc nhất. Ông nghe tất cả mọi đài phát thanh quốc tế và ghi âm hàng đêm! Có tin đồn gì về tin tức từ bên ngoài thì đạp xe tới hỏi ông là rõ. Có hay không, đúng hay sai, ông Phi là người mà mình có thể kiểm chứng vì nghe và nhớ hết! Trong cảnh tù đầy chung, khung cửa sổ ra thế giới bên ngoài là Nghiêm Phú Phi! Một người khác nay cũng vừa hội ngộ với chú Phi ở cõi bên kia là nhạc sĩ Lê Thương.
Hãy nhớ lại Sàigòn tang thương sau 1975 để nhớ đến những người nghệ sĩ này, với cái tai được đào tạo để nghe những gì tốt đẹp nhất của con người! Thương lắm!
Lúc mới sang Mỹ, thầy trò chúng tôi gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Kể cho nhau nghe bao nhiêu chuyện.
Cô chú Phi lén nghe đài VOA hằng đêm, chuyện gì bên Mỹ cũng theo dõi. Cô chú biết Quỳnh Giao và Mai Hương đi hát những nơi nào, lên đài trả lời phỏng vấn với Lê Văn ra sao... Và đúng năm 1985 ấy, nhà thơ Thanh Tâm Tuyền lén gửi ra ngoại quốc tập thơ “Vang Vang Trời Vào Xuân” với bút hiệu Trần Kha, được Cung Tiến phổ nguyên tập thành một song's cycle (liên khúc). Cũng khó hát như thơ Thanh Tâm Tuyền!
Năm đó, trưởng ban Việt ngữ đài VOA là Lê Văn bèn tổ chức một buổi trình bày để giới thiệu liên khúc tại vùng thủ đô Hoa Thịnh Ðốn. Thành phần ca sĩ là Mai Hương và Quỳnh Giao với dương cầm Nghiêm Phú Phi. Phải nói là nhạc sĩ Cung Tiến rất cẩn trọng với những sáng tác của ông. Chính ông đã viết luôn phần dương cầm cho liên khúc, nên ngoài Nghiêm Phú Phi, không thể tìm người đàn đúng nguyên bản của tác phẩm, ngoại trừ phải mời tới nhưng nhạc sĩ đã tốt nghiệp nhạc viện và tập dượt công phu mới trình bày nổi. Tiếng đàn điêu luyện và tính tình hiền lành của chú chiếm cảm tình mọi người. Phần hai là phần trình diễn của cặp Lê Uyên Phương, vốn là bạn thân của Cung Tiến.
Hăng hái vì thành quả của buổi Vang Vang Trời Vào Xuân, Lê Văn tổ chức 40 năm âm nhạc Phạm Ðình Chương. Lần này thành phần nghệ sĩ đông đủ hơn, gồm ban hợp ca Thăng Long hải ngoại (Hoài Bắc, Hoài Trung, Mai Hương), ban tam ca Tiếng Tơ Ðồng (Kim Tước, Mai Hương, Quỳnh Giao) và Lệ Thu. Ban nhạc cũng đông đủ hơn với Nghiêm Phú Phi, Ðan Thọ, Hoàng Thi Thao, Dương Ðức Trường và một tay trống của địa phương.
Người giới thiệu chương trình là Mai Thảo, nhà văn nổi tiếng nói thẳng, nói chẳng lấy lòng của chúng ta lại rất quý trọng Nghiêm Phú Phi, một người không thích uống rượu!
Buổi hát thành công rực rỡ, tiếng vang lan tận đến bên Âu Châu. Lê Văn được mời là người tổ chức và đem cả chương trình 40 năm âm nhạc Phạm Ðình Chương hát tại Âu Châu trong hai tuần. Lần này không có Lệ Thu mà thêm phần dân ca với Diễm Chi, và phần nhạc chiến đấu với Nguyệt Ánh. Phái đoàn đi từ Mỹ, đến Ðức Quốc hát ở Munich, Stuggart, rồi đi Thụy Sĩ hát ở Bernes và Bales, và sau cùng là Pháp hát ở tỉnh Troyes, và ngày cuối cùng hát ở rạp Maubert tại Paris.
Chúng tôi di chuyển bằng máy bay, bằng xe lửa và bằng xe hơi, đi xuyên qua các làng nhỏ, cảnh đẹp như trong truyện. Chú Phi và cô Sương vừa đến Pháp là bị rơi mất giấy tờ. Mới chân ướt chân ráo ra đến nước ngoài, chuyện giấy tờ làm chú cũng lo. Nhưng bà Lê Văn rất tháo vát, nói tiếng tây như đầm, đến consulat một buổi là xong! Ðoàn đi đến đâu cũng được tán thưởng nên nghệ sĩ vui vô cùng. Ăn cơm Tây, uống rượu Tây mà hát nhạc Việt thì là Tiên rồi. Nhưng Tiên thì cũng có lúc đau ốm: sau khi Nguyệt Ánh bị đầy bụng, không tiêu, thì Hoài Trung bị đau lưng, đêm nằm dưới đất cứng, không nằm nệm được. Vậy mà chú Phi, với cái chân bị tật, vẫn khỏe mạnh như thường.
Mỗi ngày sau khi đi đường dài cả 10 tiếng mới đến nơi, nghỉ một chút là trình diễn ngay. Ca sĩ còn có bài hát bài không phải hát, chứ nhạc sĩ, nhất là người đàn dương cầm coi như phần chính của ban nhạc thì không được nghỉ một bài nào cả. Ðêm nào cũng được kết thúc chương trình bằng trường ca Hội Trùng Dương với các giọng ca tràn đầy sức mạnh, với giọng Hoài Trung như sóng nước mênh mông và tiếng dương cầm Nghiêm Phú Phi vũ bão, bao la như nước vỡ bờ làm khán giả xúc động đến rưng lệ...
Có đi và chung sống như trong một gia đình, mới thấy cô Sương đúng là người vợ hiền, như cái xương sống của chú Phi. Chú chỉ đàn thôi, chứ việc lớn nhỏ nào cũng do cô chu toàn. Từ bài bản tới miếng ăn miếng uống, nhất nhất là gọi cô Sương. Cả ngày nghe chú gọi “mẹ, mẹ, ra làm cái này, lấy cái kia....” lúc nào cô cũng vui vẻ làm, coi chú như ông vua vậy.
Sau này, khi Quỳnh Giao ra mắt đĩa nhạc Hành Trình Phạm Duy tại Houston, với sự tham dự của Phạm Duy, thì cũng chú Phi đã chống gậy bay qua đàn dương cầm cho cô cháu hát. Ông từng nói rất vui, rằng xưa kia đã đờn cho mẹ hát, nay đờn cho con gái!
Ðấy là những kỷ niệm và báu vật không thể quên được của một người đã được biết và làm việc chung với Nghiêm Phú Phi trong hơn nửa thế kỷ.
Nhưng Nghiêm Phú Phi còn hơn vậy.
Ông bị polio và phải chống nạng, điều ấy, ai cũng biết. Ông là bậc sư về nhạc cổ điển Tây phương, tốt nghiệp ở những lò đào tạo danh tiếng nhất của Pháp, và rất khó tính khi dạy nhạc. Ðiều ấy, chúng ta cũng có thể biết, học trò đích thực của trường Quốc Gia Âm Nhạc thì càng biết. Nhưng ông là nhạc sĩ có tâm hồn Việt Nam và muốn đưa âm nhạc Việt Nam lên ngang tầm thế giới. Một số người yêu nhạc và hiểu nhạc thì có thể hiểu được ước nguyện đó của ông. Ông có một số tác phẩm viết cho dàn nhạc giao hưởng những bài divertissements dựa vào âm giai ngũ cung hoàn toàn Á đông, nhưng chỉ được trình bày đôi lần trên sân khấu trường Quốc Gia Âm Nhạc, có nhiều bản còn chưa được phổ biến...
Ðiều mà ít ai biết, Nghiêm Phú Phi còn là một cái neo.
Ông ràng chúng tôi lại với nhau, với kỷ niệm và tình cảm của năm xưa. Bất cứ ai đã từng làm việc trong trường Quốc Gia Âm Nhạc hay đài phát thanh thời xưa mà ghé thăm miền Nam California đều liên lạc với Nghiêm Phú Phi. Ông giữ mối giao tình bền chặt với từng người và liên lạc với mọi người để gần xa, từ Úc, từ Âu hay từ Việt Nam, đều có những buổi hội ngộ rưng rưng nước mắt, ngay tại nhà ông.
Khi ấy, Nghiêm Phú Phi im lặng như một ông Phật, nhìn cô Sương hầu hạ mọi người trong sự náo nhiệt đầy cảm động. Chúng tôi mà còn gặp lại được nhau, và biết tin tức của nhau, chính là nhờ Nghiêm Phú Phi. Ông mất đi, giới yêu nhạc và yêu nghề của thời xưa đã mất một cái neo.
Ðúng 10 năm trước, Mai Thảo ra đi đã đem theo cái neo ràng buộc nhiều anh chị em cầm bút với nhau. Bây giờ đến lượt Nghiêm Phú Phi trong lãnh vực âm nhạc và phát thanh.
Làm sao chúng tôi không khỏi thấy một sự trống vắng, một nỗi bơ vơ?
Trong khi viết bài này lại còn được tin, là ở miền Ðông bên kia nhà thơ Vương Ðức Lệ cũng vừa từ giã chúng ta, buổi trưa Chủ Nhật 20. Ông cũng là một người bạn đáng quý trong các nhân vật đã từng phục vụ trong ngành phát thanh, tại đài Sàigòn, trước năm 1975...
Năm 2008 này mở màn với quá nhiều mất mát...
Cô chú Phi lén nghe đài VOA hằng đêm, chuyện gì bên Mỹ cũng theo dõi. Cô chú biết Quỳnh Giao và Mai Hương đi hát những nơi nào, lên đài trả lời phỏng vấn với Lê Văn ra sao... Và đúng năm 1985 ấy, nhà thơ Thanh Tâm Tuyền lén gửi ra ngoại quốc tập thơ “Vang Vang Trời Vào Xuân” với bút hiệu Trần Kha, được Cung Tiến phổ nguyên tập thành một song's cycle (liên khúc). Cũng khó hát như thơ Thanh Tâm Tuyền!
Năm đó, trưởng ban Việt ngữ đài VOA là Lê Văn bèn tổ chức một buổi trình bày để giới thiệu liên khúc tại vùng thủ đô Hoa Thịnh Ðốn. Thành phần ca sĩ là Mai Hương và Quỳnh Giao với dương cầm Nghiêm Phú Phi. Phải nói là nhạc sĩ Cung Tiến rất cẩn trọng với những sáng tác của ông. Chính ông đã viết luôn phần dương cầm cho liên khúc, nên ngoài Nghiêm Phú Phi, không thể tìm người đàn đúng nguyên bản của tác phẩm, ngoại trừ phải mời tới nhưng nhạc sĩ đã tốt nghiệp nhạc viện và tập dượt công phu mới trình bày nổi. Tiếng đàn điêu luyện và tính tình hiền lành của chú chiếm cảm tình mọi người. Phần hai là phần trình diễn của cặp Lê Uyên Phương, vốn là bạn thân của Cung Tiến.
Hăng hái vì thành quả của buổi Vang Vang Trời Vào Xuân, Lê Văn tổ chức 40 năm âm nhạc Phạm Ðình Chương. Lần này thành phần nghệ sĩ đông đủ hơn, gồm ban hợp ca Thăng Long hải ngoại (Hoài Bắc, Hoài Trung, Mai Hương), ban tam ca Tiếng Tơ Ðồng (Kim Tước, Mai Hương, Quỳnh Giao) và Lệ Thu. Ban nhạc cũng đông đủ hơn với Nghiêm Phú Phi, Ðan Thọ, Hoàng Thi Thao, Dương Ðức Trường và một tay trống của địa phương.
Người giới thiệu chương trình là Mai Thảo, nhà văn nổi tiếng nói thẳng, nói chẳng lấy lòng của chúng ta lại rất quý trọng Nghiêm Phú Phi, một người không thích uống rượu!
Buổi hát thành công rực rỡ, tiếng vang lan tận đến bên Âu Châu. Lê Văn được mời là người tổ chức và đem cả chương trình 40 năm âm nhạc Phạm Ðình Chương hát tại Âu Châu trong hai tuần. Lần này không có Lệ Thu mà thêm phần dân ca với Diễm Chi, và phần nhạc chiến đấu với Nguyệt Ánh. Phái đoàn đi từ Mỹ, đến Ðức Quốc hát ở Munich, Stuggart, rồi đi Thụy Sĩ hát ở Bernes và Bales, và sau cùng là Pháp hát ở tỉnh Troyes, và ngày cuối cùng hát ở rạp Maubert tại Paris.
Chúng tôi di chuyển bằng máy bay, bằng xe lửa và bằng xe hơi, đi xuyên qua các làng nhỏ, cảnh đẹp như trong truyện. Chú Phi và cô Sương vừa đến Pháp là bị rơi mất giấy tờ. Mới chân ướt chân ráo ra đến nước ngoài, chuyện giấy tờ làm chú cũng lo. Nhưng bà Lê Văn rất tháo vát, nói tiếng tây như đầm, đến consulat một buổi là xong! Ðoàn đi đến đâu cũng được tán thưởng nên nghệ sĩ vui vô cùng. Ăn cơm Tây, uống rượu Tây mà hát nhạc Việt thì là Tiên rồi. Nhưng Tiên thì cũng có lúc đau ốm: sau khi Nguyệt Ánh bị đầy bụng, không tiêu, thì Hoài Trung bị đau lưng, đêm nằm dưới đất cứng, không nằm nệm được. Vậy mà chú Phi, với cái chân bị tật, vẫn khỏe mạnh như thường.
Mỗi ngày sau khi đi đường dài cả 10 tiếng mới đến nơi, nghỉ một chút là trình diễn ngay. Ca sĩ còn có bài hát bài không phải hát, chứ nhạc sĩ, nhất là người đàn dương cầm coi như phần chính của ban nhạc thì không được nghỉ một bài nào cả. Ðêm nào cũng được kết thúc chương trình bằng trường ca Hội Trùng Dương với các giọng ca tràn đầy sức mạnh, với giọng Hoài Trung như sóng nước mênh mông và tiếng dương cầm Nghiêm Phú Phi vũ bão, bao la như nước vỡ bờ làm khán giả xúc động đến rưng lệ...
Có đi và chung sống như trong một gia đình, mới thấy cô Sương đúng là người vợ hiền, như cái xương sống của chú Phi. Chú chỉ đàn thôi, chứ việc lớn nhỏ nào cũng do cô chu toàn. Từ bài bản tới miếng ăn miếng uống, nhất nhất là gọi cô Sương. Cả ngày nghe chú gọi “mẹ, mẹ, ra làm cái này, lấy cái kia....” lúc nào cô cũng vui vẻ làm, coi chú như ông vua vậy.
Sau này, khi Quỳnh Giao ra mắt đĩa nhạc Hành Trình Phạm Duy tại Houston, với sự tham dự của Phạm Duy, thì cũng chú Phi đã chống gậy bay qua đàn dương cầm cho cô cháu hát. Ông từng nói rất vui, rằng xưa kia đã đờn cho mẹ hát, nay đờn cho con gái!
Ðấy là những kỷ niệm và báu vật không thể quên được của một người đã được biết và làm việc chung với Nghiêm Phú Phi trong hơn nửa thế kỷ.
Nhưng Nghiêm Phú Phi còn hơn vậy.
Ông bị polio và phải chống nạng, điều ấy, ai cũng biết. Ông là bậc sư về nhạc cổ điển Tây phương, tốt nghiệp ở những lò đào tạo danh tiếng nhất của Pháp, và rất khó tính khi dạy nhạc. Ðiều ấy, chúng ta cũng có thể biết, học trò đích thực của trường Quốc Gia Âm Nhạc thì càng biết. Nhưng ông là nhạc sĩ có tâm hồn Việt Nam và muốn đưa âm nhạc Việt Nam lên ngang tầm thế giới. Một số người yêu nhạc và hiểu nhạc thì có thể hiểu được ước nguyện đó của ông. Ông có một số tác phẩm viết cho dàn nhạc giao hưởng những bài divertissements dựa vào âm giai ngũ cung hoàn toàn Á đông, nhưng chỉ được trình bày đôi lần trên sân khấu trường Quốc Gia Âm Nhạc, có nhiều bản còn chưa được phổ biến...
Ðiều mà ít ai biết, Nghiêm Phú Phi còn là một cái neo.
Ông ràng chúng tôi lại với nhau, với kỷ niệm và tình cảm của năm xưa. Bất cứ ai đã từng làm việc trong trường Quốc Gia Âm Nhạc hay đài phát thanh thời xưa mà ghé thăm miền Nam California đều liên lạc với Nghiêm Phú Phi. Ông giữ mối giao tình bền chặt với từng người và liên lạc với mọi người để gần xa, từ Úc, từ Âu hay từ Việt Nam, đều có những buổi hội ngộ rưng rưng nước mắt, ngay tại nhà ông.
Khi ấy, Nghiêm Phú Phi im lặng như một ông Phật, nhìn cô Sương hầu hạ mọi người trong sự náo nhiệt đầy cảm động. Chúng tôi mà còn gặp lại được nhau, và biết tin tức của nhau, chính là nhờ Nghiêm Phú Phi. Ông mất đi, giới yêu nhạc và yêu nghề của thời xưa đã mất một cái neo.
Ðúng 10 năm trước, Mai Thảo ra đi đã đem theo cái neo ràng buộc nhiều anh chị em cầm bút với nhau. Bây giờ đến lượt Nghiêm Phú Phi trong lãnh vực âm nhạc và phát thanh.
Làm sao chúng tôi không khỏi thấy một sự trống vắng, một nỗi bơ vơ?
Trong khi viết bài này lại còn được tin, là ở miền Ðông bên kia nhà thơ Vương Ðức Lệ cũng vừa từ giã chúng ta, buổi trưa Chủ Nhật 20. Ông cũng là một người bạn đáng quý trong các nhân vật đã từng phục vụ trong ngành phát thanh, tại đài Sàigòn, trước năm 1975...
Năm 2008 này mở màn với quá nhiều mất mát...
Ban Tuổi Xanh năm xưa - Quỳnh Giao
Mới đây, người viết nhận được tấm hình ban Tuổi Xanh do Phạm Duy Ðức gửi tặng.
Ðức là con trai út của cặp nghệ sĩ Thái Hằng-Phạm Duy, gửi với lời nhắn là giúp Ðức tìm ra tên từng người trong hình. Thoạt kỳ thủy, chỉ nhận ra hai bác Phạm Ðình Sĩ và Kiều Hạnh, còn trong bầy nhi đồng thì nhận ra ngay chính mình ngày bé mà thôi.
Sau vài phút xem kỹ thì nhận ra hầu hết mọi người: Chị Bích Chiêu, chị Mai Hương, chị Mai Hân và chị Bạch Tuyết trong hàng “người lớn,” vì đã trên 12 tuổi rồi. Ðến hàng “nhi đồng” thật sự gồm những đứa vắt mũi chưa sạch mới lên bẩy lên tám là Tuấn Ngọc, Quốc Thắng, Kim Chi, và người viết bài, thời ấy còn giữ tên thật là Ðoan Trang...
Một vài người khác thì mình đã quên mặt nhưng trong ký ức vẫn nhớ rõ tên như các chị Lê Phi, Lê Út... Nhưng không hiểu sao lại thiếu mặt Anh Minh, anh ruột của người viết hồi đó là một giọng chủ chốt trong ban Tuổi Xanh!
Nhìn hình rồi miên man nhớ đến rất nhiều kỷ niệm.
Thời kỳ đó là đầu thập niên 50. Thân mẫu của người viết là danh ca Minh Trang thành lập ra ban Thiếu Sinh Nhi Ðồng đầu tiên, nơi hoạt động chính yếu là đài phát thanh.
Trong ban có Lê Phi, Lê Út, Mai Hương, Bạch Tuyết, Bích Chiêu, Kim Chi, Quốc Thắng, Tuấn Ngọc, Anh Minh và Ðoan Trang. Nhạc sĩ duy nhất trong ban là tay pianist Hoàng Linh, chừng 18 tuổi. Anh là học trò của nhạc sĩ Võ Ðức Tuyết.
Thế rồi năm 1954, gia đình cặp nghệ sĩ Phạm Ðình Sĩ-Kiều Hạnh di cư vào Nam, thân mẫu người viết bèn nhường ban nhi đồng cho hai bác.
Cặp nghệ sĩ đổi tên ban là “Tuổi Xanh” cho thích hợp với các con bấy giờ đã trên 10 tuổi rồi, hết còn là nhi đồng. Rồi ban Tuổi Xanh có thêm Mai Hân, Tuấn Tùng... Ðấy là lớp “Tuổi Xanh” đầu tiên. Về sau là các mầm non xuất sắc khác, như Hoàng Oanh, Phương Tâm (tức Phương Hoài Tâm), Phương Mai, Xuân Thu, Tý Hon, Quỳnh Mai (tức Vân Quỳnh) và Quỳnh Như (tức Vân Hòa) là hai cô em gái của người viết.
Chắc quý độc giả cũng thắc mắc không biết các nhi đồng ngày xưa khi lớn lên hoạt động và sinh hoạt ra sao?
Xưa nay, “thần đồng” thường là các ngôi sao tắt biến khi trở thành người lớn. Như Shirley Temple giã từ màn bạc rất sớm và trở thành bà đại sứ Shirley Temple Black (Black là tên ông chồng). Như Hayley Mills con gái John Mills đóng phim rất cừ mà về sau không xuất hiện nữa.
Ðó cũng là trường hợp của các “thần đồng” Quốc Thắng hay Kim Chi của Việt Nam, lúc bé nổi tiếng như cồn. Quốc Thắng hình như học ngành y, trở thành bác sĩ. Kim Chi cháu của nhạc sĩ Thẩm Oánh khi nhỏ rất thân với người viết mà sau này mất hẳn liên lạc, không biết chị làm nghề gì, sống ở đâu.
Còn lại những người vẫn theo đuổi nghệ thuật thì trước hết phải kể đến Bích Chiêu, người chị lớn của gia đình nghệ sĩ Lữ Liên. Giã từ tuổi ấu thơ, Bích Chiêu mang giọng hát nũng nịu và man dại gieo rắc các phòng trà và và hộp đêm ở Sài Gòn. Chị trở thành thần tượng của nhiều khán thính giả. Dù chuyên hát nhạc ngoại quốc, Bích Chiêu vẫn thành công qua những ca khúc trữ tình Việt Nam.
Bài hát mang dấu ấn riêng của Bích Chiêu là “Nỗi Lòng” của Nguyễn Văn Khánh. Có lẽ cho đến giờ chưa thấy ai hát bài này lơi lả và khêu gợi như giọng hát Bích Chiêu. Cách kéo câu của chị là một tuyệt chiêu mà sau này, cô em gái Khánh Hà cũng tận dụng và thành công như bà chị.
Tuấn Ngọc cũng trở thành một nam danh ca sáng giá. Như bà chị Bích Chiêu, anh khởi đầu sự nghiệp bằng nhạc ngoại quốc, hát cho các club Mỹ. Nhưng chính là khi anh hát nhạc Việt ở hải ngoại mới trở thành thần tượng của thính giả khắp nơi. Cũng như những người con trong gia đình Lữ Liên, Tuấn Ngọc tạo cho mình một nét riêng trong cách hát, cách nhả chữ “lừng khừng,” hay cách lên một nốt cao đầy sung mãn khiến những người yêu nhạc mê thích. Chỉ cần thấy hiện tượng “bắt chước” Tuấn Ngọc trong các tài năng mới, chúng ta biết anh được sự ái mộ rộng rãi của mọi người.
Chị Mai Hương bắt đầu hát ban “người lớn” khi 18 tuổi, và là một trong những giọng ca chủ lực của hầu hết các ban trên các đài phát thanh, nhờ giọng hát ngọt ngào cộng với kiến thức về nhạc lý vững vàng.
Chị Bạch Tuyết học dược và trở thành dược sĩ. Chị Mai Hân ít hát hơn, và về sau trở thành một xướng ngôn viên chuyên nghiệp.
Có một người hát hay vô cùng khi còn nhi đồng. Theo thiển ý của người viết thì hát hay nhất trong tất cả là Tuyết Phương. Sau khi ngưng hát, Quỳnh Giao có thoáng gặp chị trong trường Gia Long khi hai đứa học cùng trường mà không cùng lớp. Cùng lớp thì có cô bạn Hoàng Oanh, về sau nổi tiếng ngâm thơ hay và là một trong những giọng hát được thu vào đĩa nhựa nhiều nhất trước 1975.
Nhân đây Quỳnh Giao cũng phải nhắc lại việc cộng tác với các đài phát thanh ngày xưa. Khi hát với các ban trên đài phát thanh, kỹ thuật thu thanh và bài vở đòi hỏi ca sĩ phải vững nhạc lý. Các nhạc trưởng đưa bài là phải cầm xem và hát ngay, cả bài đơn ca lẫn hợp ca hay phụ họa. Trong một buổi thu thanh, ca sĩ phải chu toàn nhiều nhiệm vụ: khi thì đơn ca, khi thì song ca hay tam ca, kể cả trình bày các bài hợp ca và hát phụ họa cho người khác. Trong một chương trình phát thanh mà thời ấy trong đài vẫn gọi là “émission” thì ca sĩ phái hát cỡ năm sáu bài khác nhau, cũ và mới, quen hay lạ. Rất khác với kiểu trình bày trong phòng trà cho khán giả.
Nhìn tấm hình, như nhìn cả tuổi thơ hiện về. Bỗng thấy lòng mình chùng xuống vì thời gian trôi qua mau quá, như vó câu qua cửa sổ, và nhớ ngôi nhà số 3 đường Phan Ðình Phùng tha thiết...
Ðó là đài phát thanh mà cũng là một gia đình lớn của nhiều thế hệ nghệ sĩ, từ tuổi xanh nhóc tì cho đến lão thành.
Mời nghe toàn bộ: "Tình Khúc Văn Cao" do Mai Hương & Quỳnh Giao trình bày
1. Thiên Thai (Văn Cao & Hoàng Thoại)- Quỳnh Giao & Mai Hương
2. Cung Đàn Xưa (Văn Cao) - Quỳnh Giao
3. Suối Mơ (Văn Cao) - Mai Hương
4. Làng Tôi (Văn Cao) - Quỳnh Giao &Mai Hương
5. Trương Chi (Văn Cao) - Quỳnh Giao
6. Ngày Mùa (Văn Cao) - Quỳnh Giao & Mai Hương
7. Bến Xuân (Phạm Duy & Văn Cao) - Mai Hương
8. Buồn Tàn Thu (Văn Cao) - Quỳnh Giao
9. Thu Cô Liêu (Văn Cao) - Mai Hương
10. Trường Ca Sông Lô (Văn Cao) - Quỳnh Giao & Mai Hương
Mời nghe toàn bộ CD "Tìm Nhau Bốn Mùa" với tiếng hát Kim Tước, Mai Hương, Quỳnh Giao
No comments:
Post a Comment