Vào những năm 1954 – 1955, hàng ngàn
người con Nam Bộ theo sự điều động của cách mạng đã tập kết ra miền
Bắc, với niềm tin và hy vọng chỉ sau hai năm sẽ được trở về quê
hương yêu dấu. Ba má tôi cũng nằm trong số đó. Và không ai có thể
hình dung được rằng mãi hai mươi năm sau mới lại được đặt chân về
đôi bờ Đồng Nai, Vàm Cỏ, Cửu Long… Ba tôi đã viết trong hồi ký như
sau.
Một ngày cuối năm 1954, giữa một rừng cờ đỏ sao vàng, gia đình và
đồng bào tiễn đội ngũ chúng tôi lên đường tập kết… Lần đầu tiên có
chuyến đi xa nhưng không một ai thiết nhìn phong cảnh. Chúng tôi vừa
để lại phía sau những gì thân thương nhất, vừa lo âu không hiểu rồi
đây tương lai của mảnh đất quê hương yêu mến rồi sẽ ra sao, vừa băn
khoăn cố gắng hình dung những nhiệm vụ nặng nề sắp đến, tự hỏi mình
có gánh vác nổi hay không?
Tàu Xta-vơ-rô-pôn cập bến Sầm Sơn vào một buổi sáng mùa đông, gió
lạnh chạy dài trên bãi biển. Đồng bào đông đảo nồng nhiệt đón tiếp
chúng tôi. Trống ếch rập rùng, nhưng lòng chúng tôi quặn đau vì thấy
bà con ăn bữa cháo bữa rau, nhưng vẫn dành cho những đứa con miền
Nam cơm đầy thịt đủ.
Kế tiếp là những năm dài “ngày Bắc đêm Nam”, là những chuyến lưu
diễn liên miên: Rừng núi Việt Bắc, đồng ruộng Khu Ba, khu mỏ Quảng
Ninh, giới tuyến Hiền Lương… Tới đâu chúng tôi cũng ráng đem lời ca
tiếng hát góp phần cho than, lúa thêm nhiều, đem chút ít tình cảm ấm
áp cho anh em đồng hương, ráng hết sức mình vì miền nam ruột thịt”
Hai mươi năm, một thế hệ mới đã
kịp ra đời và lớn lên ở Hà Nội – miền Bắc, đó là thế hệ chúng tôi,
thế hệ “một chốn đôi quê” chỉ được biết quê hương qua những ký ức mà
mẹ cha truyền lại.
Hai mươi năm sống ở miền Bắc ba má tôi vẫn giữ được
nguyên vẹn giọng nói và tính cách người Nam bộ chân chất thiệt tình.
Những tháng năm sống ở Hà Nội, ký ức về quê hương thường
được ba má tôi nhắc đến, bất kỳ lúc nào có gì đó gợi
nhớ. “Ngày Bắc đêm Nam” suốt hai mươi năm không làm nguôi nỗi
nhớ mà chỉ làm dầy thêm ký ức về quê hương. Tuổi thơ của
tôi được nuôi dưỡng trong những ký ức của cha mẹ.
Quê hương tôi là làng nhỏ Mỹ Hiệp
trên Cù Lao Giêng bên bờ sông Tiền, nơi mà sau này nhạc sĩ
Hoàng Hiệp – cũng là một người bà con gần với gia đình tôi
– đã ghi lại ký ức về nó qua bài hát “Trở về dòng sông
tuổi thơ”. Làng Mỹ Hiệp hiền lành với vườn trái cây, những
nếp nhà sàn khuất sau hàng dừa, cánh đồng lúa chín trong
mênh mông mùa nước nổi… Vào đầu năm 1945 một cô gái bên kia
sông Tiền đã theo ba tôi về làm dâu và dù chỉ ở đó vài năm
thôi nhưng trong tâm thức của má tôi, quê chồng cũng là quê
mình. Và cũng như vậy, quê ngoại của tôi, làng Hòa An kế
bên thị tứ Cao Lãnh cũng trở nên gần gũi hơn với hình ảnh
cây mận xanh bên chái bếp, loại mận xanh Hòa An nổi tiếng
thường được hấp với cá lóc, vị chua ngọt thanh thanh thấm
vào miếng cá, nhậu quên say… Vườn thuốc lá Cao Lãnh thơm
đậm đà nhờ được bón bằng phân cá, làn khói thơm mùi
lúa mới từ nhà máy xay của ông ngoại lan trên sông…
Tôi biết về quê hương Cù lao Giêng
và Cao Lãnh từ ấy, biết yêu sông Tiền yêu mùa nước nổi từ
ấy, biết thèm ăn mắm lóc, thèm cá rô kho tộ, thèm canh chua
cá linh bông điên điển… Lớn hơn một chút, từ những cuốn
sách qua những câu chuyện, hiểu biết của tôi về quê hương cụ
thể hơn nhiều hơn nhưng không thể thay thế sự lung linh run
rẩy mà ký ức cha mẹ truyền cho.
Nhưng quê hương không chỉ là những ký
ức run rẩy đẹp. Hai mươi năm bặt tin, một ngày đầu tháng Năm 1975
một bà mẹ được ôm người con gái trong vòng tay. Đứa con gái mà bà đã
phải lập bàn thờ từ khi nó đi tập kết với lời hứa: con đi hai năm sẽ
về với má. Bàn thờ đứa con còn sống ở “phía bên kia” là để cho những
đứa con khác yên ổn học hành, đi làm, đi lính…Nhưng chưa kịp mừng vì
con gái trở về bà đã phải đưa hai người con trai đi học tập cải tạo.
Gia đình lại chia ly. Người chị tìm cách bảo lãnh cho hai em ra khỏi
trại cải tạo sớm hơn hạn định, gia đình gom góp tiền bạc cho họ vượt
biên. Cũng may, người trong nhà thuộc bên này hay bên kia, cũng có
lúc hờn giận nhau nhưng không nuôi oán trách thù hận. Họ thương yêu
nhau hơn vì không muốn làm người mẹ đau lòng, vì họ hiểu không ai
trong gia đình muốn những việc như thế xảy ra. Đấy là chuyện của gia
đình bạn tôi sau năm 1975.
Nhưng dù như vậy, gia đình bạn còn may
mắn hơn rất nhiều gia đình khác. Từ vết cắt 1954 biết bao gia đình
có người thân phải đứng về hai chiến tuyến, biết bao gia đình không
thể sum họp vì vợ, chồng đã có gia đình khác trong những năm dài
không hẹn ngày gặp lại, biết bao nhiêu gia đình tiếp tục tan vỡ vào
những ngày ngỡ đã bình yên… Vết cắt 1954 không chỉ dài đến 20 năm mà
hình như, 60 năm rồi vẫn chưa lành.
Tôi vẫn luôn tự hỏi, nếu ngày ấy bản
đồ Việt Nam không bị một vạch đỏ cắt ngang sông Bến Hải thì bây giờ
đất nước sẽ thế nào?
Lịch sử thì không có chữ “nếu”. Chính
vì vậy cần minh bạch tất cả những gì đã làm thay đổi số phận đất
nước và số phận của từng gia đình, để thế hệ sau không phải đặt ra
một chữ “nếu” đau xót như thế hệ hôm nay!
Nguyễn Thị Hậu
Nguyễn Thị Hậu
No comments:
Post a Comment