Ngày Quân Lực VNCH 19 tháng 6 – 1965
VNCH - NhungViSaoThoiLuaDan_01 ( 10 tap )
Lịch
sử miền Nam Việt Nam của chúng ta ngoài bất hạnh to lớn là ngày mất
nước tan hàng 30 tháng 4-1975 còn có những bất hạnh nhỏ cũng khá đau
thương.
Nếu chúng ta có những ngày ghi dấu rõ ràng như giỗ Tổ Hùng Vương, Hai bà Trưng, rồi trải qua các triều đại anh hùng chiến đấu
chống Bắc phương của thời xưa thì ngày tháng lịch sử của một trăm năm qua có nhiều điều phiền muộn.
Không
thể kể đến các ngày tháng mà phe cộng sản ồn ào tưởng niệm, riêng miền
Nam chúng ta vẫn còn nhớ ngày 20 tháng 7-1954 chia đôi đất nước. Rồi đến
30 tháng 4-1975 mất nốt miền Nam. Chúng ta có đến 2 ngày Quốc Khánh
nhưng chẳng ngày nào được coi là toàn quân toàn dân đồng thuận. Ngày 26
tháng 10 của nền đệ nhất Cộng Hòa với ông Ngô Đình Diệm cũng phải trả
giá mở đầu bằng cuộc truất phế ông vua cuối cùng của triều Nguyễn và
chấm dứt bằng cái chết của chính vị tổng thống. Qua nền đệ nhị Cộng Hòa
của trung tướng Nguyễn Văn Thiệu đã ra đời bắt đầu bằng một ngày Quốc
Khánh mới 1 tháng 11. Ở giữa 2 nền Cộng Hòa có ngày 19-6-1965. Ngày mà
ông thủ tướng Kỳ gọi là ngày quân đội lên cầm quyền. Đó là ngày được
chọn là ngày Quân Lực, chúng ta vẫn tưởng nhớ và kỷ niệm cho đến nay.
Tại hải ngoại đây là ngày quân lực lần thứ 49.
Mặc
dù không thích cái ý nghĩa nguồn gồc lịch sử của ngày Quân Lực, nhưng
không phải vì vậy mà chúng tôi không tôn trọng nó. Đây chính là điều hẹn
ước, đây chính là một sự thỏa hiệp. Đây là cái cây của tình chiến hữu,
phải chăm sóc mới tồn tại và phải tưới nước bón phân mới sống được. Sau
cùng, khi nói chuyện cũ vẫn có anh em trẻ hỏi rằng tại sao ngày xưa
không lựa chọn một ngày nào khác có ý nghĩa và không hệ lụy với biến
chuyển thời sự cuả các triều đại. Bèn kể lại chuyện lịch sử ngày Quân
lực như sau:
49 Lần Quân Lực, viết
cho đời lính.
Tôi
đã từng đọc biết bao lần về lịch sử Ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Mỗi lần đọc là một lần khắc khoải, nhưng rồi bụng lại bảo dạ, thôi không
than thở nữa. Lần này vào dịp Quân Lực 19 tháng 6 năm 2014, lại xin gửi
đến các chiến hữu một chút tâm sự.
Cũng
như quý vị, chúng tôi không thích cái ý nghĩa nguyên thủy của Ngày Quân
Lực mà ông thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ đã khoe rằng, ông là cha đẻ. Chẳng
phải bây giờ mới nói ra cái chuyện cũ kỹ đó, chúng tôi đã từng viết ra
cảm nghĩ ray rứt ngay từ 49 năm về trước. Ngay từ ngày đó cũng đã vất vả
về cây bút. Số là ngay sau khi đảo chính ông Diệm, tôi là sĩ quan đại
diện Quân Khu I từ miền Đông lên họp Tổng Tham Mưu về đề tài đi tìm một
ngày ghi dấu cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Anh em trong ủy ban các cấp
ngồi bàn thảo. Lấy biết bao nhiêu ngày tháng lịch sử từ Bắc vào Nam, từ
1950 đến 1965 để đưa ra lựa chọn. Suốt cả
chiều dài
của lịch sử đều là những ngày tháng có liên quan đến việc hình thành
quân đội quốc gia, nhưng chẳng chọn được ngày nào cho trọn vẹn ý nghĩa.
Cái đắng cay của vấn đề là giai đoạn trước di cư 54, nghị định văn thư
và hồ sơ thành lập đơn vị Việt Nam đều bằng tiếng Pháp và từ bộ tư lệnh
quân đội Viễn Chinh đưa xuống. Lệnh cho thành lập BVN gọi là các tiểu
đoàn Việt Nam cũng bằng Pháp văn. Lệnh cho tiểu đoàn 5 nhảy dù Việt Nam
vào Điện Biên Phủ cũng do tướng Pháp ký. Tiểu đoàn trưởng cũng là người
Pháp. Đọc lịch sử quân đội quốc gia trước thời 1954, bộ tổng tham mưu
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tại Sài Gòn chưa tìm được một ngày cho đủ ý
nghĩa của Quân Lực. Sau 1954 thì cũng có một số ngày tháng được trình
lên để duyệt
xét. Bản phúc trình có ghi lại một số dữ kiện mà ký ức mòn mõi của tôi
còn hình dung được một vài chi tiết như sau: Thời kỳ 46 – 47, quân đội
Liên Hiệp Pháp bắt đầu tuyển mộ tân binh Việt Nam, các đơn vị bổ túc ra
đời, các đại đội nhảy dù lính Việt do sĩ quan Pháp chỉ huy. Hiệp ước Hạ
Long ngày 6 tháng 6-1948, vua Bảo Đại nhân danh Quốc Trưởng ký với Pháp
có điều khoản thành lập Quân Đội Quốc Gia. Ngày 1 tháng 6-1949, khóa sĩ
quan Việt Nam đầu tiên mở ra tại Huế. Bốn tiểu đoàn Việt Nam thành lập.
Trong Nam là tiểu đoàn 1 Bạc Liêu và tiểu đoàn 3 Rạch Giá. Ngoài Bắc,
tiểu đoàn 2 Thái Bình và tiểu đoàn 4 Hưng Yên. Tiểu khu Hưng Yên ngày đó
là thời kỳ các sĩ quan trẻ gặp nhau. Trung úy Nguyễn Văn Thiệu, trung
úy Cao Văn Viên và đại úy
Trần Thiện Khiêm. Cao cấp nhất là đại úy Nguyễn Khánh sau thăng cấp
thiếu tá. Sau này trở thành quốc trưởng, tổng thống, thủ tướng và đại
tướng tổng tham mưu trưởng. Đến khi tập hợp vào miền Nam. Quân Đội Quốc
Gia gia tăng dần lên 60,000 quân nhưng chưa có được một ngày quân lực
mang ý nghĩa rõ ràng. Phía chính phủ trước đó thì đã có ngày Quốc Khánh
26 tháng 10 tổ chức duyệt binh hàng năm ghi dấu Đệ Nhất Cộng Hòa của
tổng thống Ngô Đình Diệm. Sau đó là đến thời kỳ đảo chính và những năm
xáo trộn giữa các tướng lãnh với cả chục lần binh biến. Tuy nhiên, sau
cùng miền Nam đã gượng gạo nhận ngày cách mạng 1 tháng 11 làm ngày Quốc
Khánh mới.
Tiếp
theo, với sức ép của Hoa Kỳ và đòi hỏi của dân chúng, các vị tướng lãnh
của thời kỳ hỗn loạn chính trị ở miền Nam đã miễn cưỡng lập ra một
chính phủ dân sự tạm thời với cụ Phan Khắc Sửu làm quốc trưởng và ông
Phan Huy Quát
làm thủ tướng. Tuy nhiên, các vị chính khách dân sự này không đủ bản
lãnh để lãnh đạo đất nước trong một hoàn cảnh rất đen tối và phức tạp.
Biết bao nhiêu tranh chấp giữa các đảng phái, các tôn giáo và rất nhiều
khó khăn trong hoàn cảnh chiến tranh ngày một gia tăng và Mỹ ào ạt đổ
quân vào Việt Nam để chặn đứng làn sóng đỏ. Thêm vào đó, quốc trưởng và
thủ tướng lại bất đồng ý kiến nên nội các dân sự bèn tuyên bố bỏ cuộc,
trao quyền lại cho các tướng lãnh. Các
tướng lãnh niên trưởng rất vui mừng họp bàn để nhảy ra chính trường gọi
là nhận trách nhiệm lịch sử. Một cách hết sức khách sáo, các xếp vẫn
nói là muốn rửa tay chính trị, không ham quyền lực nhưng tình thế bắt
buộc phải ra nhận lãnh. Nhân danh quân đội, các đàn anh niên trưởng của
chúng tôi vẫn đeo sao trên cổ áo, ngồi hội nghị tranh cãi suốt ba ngày,
đưa ông Thiệu, ông Kỳ ra cai trị đất nước gọi là ngày quân đội đứng lên
làm lịch sử 19 tháng 6-1965. Không bao giờ tôi quên được ngày 19 tháng 6
đó. Tình cảm chân thành với quân đội thì luôn luôn gắn bó, nhưng bảo
cái ngày đó là ngày toàn quân đứng lên làm lịch sử thì việc này chỉ có
các xếp làm với nhau chứ đâu có ăn nhập gì đến toàn quân. Với bút hiệu
Lính Chiến, tôi viết
báo Chính Luận cho tổng thư ký Từ Chung qua mục “Một tuần vòng chân
trời quân sự”. Tôi đã đưa ra quan điểm như trên. An Ninh Quân Đội của
Quân Khu I ở Thủ Đức đã mời lên hỏi thăm sức khỏe. Gặp anh bạn quen nói
rằng, “Thôi ông ơi, ông làm ơn nghỉ viết lách cho chúng tôi nhờ. Thời
ông Diệm lên thì có 26 tháng 10. Đến thời ông Minh thì 1 tháng 11. Bây
giờ ông Kỳ thì chọn 19 tháng 6.
Tuy
nhiên, ngày đó các xếp đã chọn thì cứ coi như một hẹn ước giữa
anh em mình. Bàn làm gì chuyện xa xôi cho thêm phiền. Viết lách làm gì
cho rắc rối.” Đó là anh bạn đại úy an ninh quân đội đã nói chuyện với
tôi đầu năm 1966. Năm đầu tiên có Ngày Quân Lực. Cho đến năm nay là 49
năm. Đúng như vậy, anh bạn cũ nhân danh An Ninh Quân Đội ngày xưa tra
vấn tôi, nay đã qua đời. Đó là đại tá Trần Duy Bính. Nhưng lời chiến hữu
nói ra vẫn còn ở lại. Quả thật, 19 tháng 6 hàng năm đối với chúng tôi
chỉ là một ngày hẹn ước để gặp nhau. Người tự nhận là khai sinh cho 19
tháng 6 là ông thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ nay đã ra đi. Vị chủ tịch ký
giấy ban hành nghị định 19 tháng 6 là trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, cũng
trở thành người thiên cổ. Vậy thì, nếu đã nhìn thấy những cay đắng của
lịch sử như thế thì cái ý nghĩa
của ngày 19 tháng 6 của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nằm ở chỗ nào. Nghĩ
như thế mà sao mỗi năm đến 19 tháng 6 vẫn thấy lòng rung động. Kỷ niệm
19 tháng 6 lần thứ nhất vào năm 1966 làm trong Bộ Tổng Tham Mưu. Năm sau
1967, duyệt binh lớn ở đường Trần Hưng Đạo. Rồi từ đó mỗi năm là có
Ngày Quân Lực. Lúc làm quy mô, lúc thì thu hẹp. Cho đến năm 1973, sau
khi vừa ký hiệp định Paris thì Tổng Tham Mưu tổ chức một cuộc duyệt binh
vĩ đại đã được ghi vào bộ hình lịch sử ngày nay vẫn còn có dịp coi lại
trên DVD. Năm đó chúng tôi tham dự trong ủy ban tổ chức do Bộ Tổng Tham
Mưu. Xin nhắc lại một vài kỷ niệm đáng ghi nhớ. Trước đó một tuần, anh
hùng quân đội từ các đơn vị được chào đón tại thủ đô, dẫn đi thăm các
danh lam thắng cảnh và các
công xưởng quân đội. Các đoàn thể và thương gia khoản đãi đại tiệc suốt
tuần. Thủ tướng Trần Thiện Khiêm và phái đoàn chính phủ lên làm lễ tại
Nghĩa Trang Biên Hòa. Khu Nghĩa Trang Quân Đội vào đầu tháng 6-1973 đã
là nơi yên nghỉ gần 15 ngàn chiến sĩ, chiếm một nửa toàn thể khu vực dự
trù cho 30 ngàn phần mộ. Các trận đánh khốc liệt từ 1968 Mậu Thân đến
1972 Mùa Hè Đỏ Lửa đều có đại diện Hải Lục Không Quân về nằm dưới lòng
đất lạnh. Tiếp theo ngày 19 tháng 6-1973, các đơn vị Hải Lục, Không
Quân, các quân đoàn, các binh chủng, địa phương quân, nhân dân tự vệ,
xây dựng nông thôn, thiếu sinh quân và nữ quân nhân đều có mặt tham dự
một cuộc diễn hành lịch sử được coi là xuất sắc nhất. Và cũng thật đau
thương, đây là cuộc
diễn hành cuối cùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Đoạn
phim được dân Hà Nội coi lén sau 1975 hết sức trầm trồ là đoàn diễn
hành nữ quân nhân. Nhịp bước quân hành của các thiếu nữ trong quân phục
đã làm cho rung động cô sinh viên văn khoa Nông Thị Thanh Nga. Sau khi
xem diễn hành ở đường Trần Hưng Đạo, cô ghi tên vào học niên khóa
1973-1974 để v ề sau ra trường trở thành thiếu úy huấn luyện
viên cho đến lúc tan hàng tháng 4-1975. Ngày nay cô thiếu úy của quân
đội Sài Gòn trở thành quả phụ bán hàng rong ở vỉa hè chợ Tân Định. Hàng
năm đem vàng hương lên Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa nhớ về ngày 19
tháng 6. Nhưng bây giờ chúng ta hãy trở lại với Ngày Quân Lực năm 1973.
Sau buổi diễn hành, tổng thống đãi tiệc buổi trưa các anh hùng quân đội
tại Dinh Độc Lập. Buổi chiều thủ tướng khánh thành khu triển lãm của Hải
Lục Không Quân và các công xưởng tiếp vận. Buổi tối là cuộc rước đuốc
và xe hoa. Hàng ngàn ngọn đuốc sáng rực đô thành Sài Gòn hoa lệ tưởng
chừng như hòn ngọc viễn đông sẽ vĩnh viễn sống mãi với Việt Nam Cộng
Hòa. Cùng buổi tối, đại tướng Tổng Tham Mưu Trưởng tiếp tân tại Bộ Tổng
Tham Mưu. Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu, phó tổng thống Trần Văn Hương, thủ tướng Trần Thiện Khiêm,
toàn thể nội các, ngoại giao đoàn, phái đoàn quốc hội và các anh hùng
quân đội tham dự đêm văn nghệ của biệt đoàn trung ương. Ngày vui quân
lực của cả một thời xưa xa cách 49 năm tưởng chừng như mới hôm qua. Bây
giờ năm 2014 đã trải qua 49 năm quân lực. Nếu ngày 19 tháng 6-1975, đất
nước mà còn giữ được thì Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa sẽ có lễ khánh
thành đợt sau cùng với Nghĩa Dũng Đài hoàn tất cao ngất từng không, rực
rỡ hàng đèn hai bên lối đi. Khu mộ chí tướng lãnh nằm ở vòng trong, rồi
đến sĩ quan các cấp và hàng binh sĩ. Nhưng rồi ngày 30 tháng tư 2014
chợt đến, ai là người còn nhớ về thắp hương tại nghĩa trang Biên Hòa.
Khu
nghĩa trang xưa trên 100 mẫu tính đến năm 2014, các gia đình đã cải
táng di chuyển 5,000 và vẫn còn 11000 ngôi mộ với cỏ gai lấp đầy lối
vào. Diện tích nghĩa trang cũng phải thu hẹp lại.
Ngày
19 tháng 6 năm 2013 vừa qua, chỉ còn một số thương phế binh Biệt Khu
Thủ Đô lên tảo mộ chui, được đến đâu hay đến đó. Tuy nhiên, trên phương
diện chính thức, dù hoang phế điêu tàn
nhưng Nghĩa trang quân đội tại Biên Hòa vẫn còn tồn tại như một chứng
tích của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Với những biến chuyển thời sự hiện
nay, tuy muộn màng nhưng chắc chắn nghĩa trang sẽ trở thành vĩnh cửu
cũng như lịch sử của Việt Nam Cộng Hòa. Các di vật của Liên Đội Chung Sự
và của quân lực đã thu về Viện Bảo Tàng tại San Jose. Ngày quân lực năm
nay, Việt sẽ đón chào các cựu chiến sĩ ghé lại thăm. Đặc biệt các vị từ
nơi xa về thăm sẽ có dịp ghi
dấu hình ảnh ý nghĩa tại San Jose với tượng đài anh hùng và hàng ngàn
di tích lịch sử.
© Giao Chỉ
© Đàn Chim Việt
© Đàn Chim Việt
Tôi biết ơn Việt Nam Cộng Hòa
Một
số người trong nước cũng như người Việt hải ngoại cho rằng không nên
vực dậy “xác chết” có tên Việt Nam Cộng Hòa. Tuy nhiên, lịch sử là nguồn
cội của bất kỳ dân tộc nào. Lịch sử là khoa học và tính Người được thể
hiện cao nhất từ đó. Bất kỳ một giai tầng nào hay một bậc vua chúa hoặc
một nhà độc tài nào đi nữa, cũng không thể nào trốn được lịch sử. Lịch
sử là Con Người.
Lịch
sử dù đau thương như VNCH đã để mất Hoàng Sa, hay đáng tủi hổ như công
hàm 1958 của VNDCCH và hội nghị Thành Đô của CHXHCNVN cùng nhiều biến cố
sự kiện quan trọng khác không thể không nhắc lại.
Nhắc
lại để hiểu rõ hơn và để cho thế hệ con cháu hôm nay, ngày mai nghiền
ngẫm, dọn mình cho một thời đại mới – đang bắt đầu ló dạng. Tôi không
biết mình có mơ mộng hão huyền trong tình thế của nước CHXHCNVN
hôm nay không, nhưng trong tâm hồn tôi, từ lâu, tôi muốn nói: Cám ơn
Việt Nam Cộng Hòa – Nhà Nước mà ở đó, làm cho tôi “Trích Lục Bộ Khai
Sanh” [*].
Sài Gòn – nơi tôi được sinh ra, lớn lên, chứng kiến một góc nhỏ nhoi những trầm luân của số phận dân tộc Việt Nam.
Dù
VNCH tồn tại ngắn ngủi, nhưng tôi không sao quên được cuộc sống chan
hòa nhân ái của tuổi hoa niên, dù ngay trong những ngày chiến tranh lửa
khói. Hôm nay, bỗng nhiên trong tôi bật ra lời thành tâm này. Tôi viết
với nỗi
xúc động rưng rưng trên khóe mắt, khi
xem lại hình ảnh những tử sĩ đã ngã xuống tại Hoàng Sa – Trường Sa ngày
xưa.
*Thay mặt gia đình*
Như đã viết rải rác trong nhiều bài trước đây, tôi sinh ra và lớn
lên tại Sài Gòn, trong một gia đình trung lưu với việc làm ăn phát đạt, dần dẫn đến giàu có hơn.
Thật
ra, sau này tôi mới biết ba tôi là “Việt Cộng nằm vùng”, do đó có thể
nói, gia đình tôi là gia đình “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”. Cách
đây vài chục năm, khi nghe câu này, tôi khá giận dữ và cảm thấy bị sỉ
nhục. Cảm giác đó dễ hiểu bởi sự thật chưa được phơi bày như sau này.
Tuy nhiên, cũng nhờ đó mà tôi tự tìm tòi. Tôi nghĩ, không có cách gì thuyết phục nhất cho
mỗi người, nếu như tự thân mình không chủ động tìm hiểu và can đảm nhìn thẳng vào Sự Thật.
Nhìn một cách thẳng thắn, không hề
né tránh là điều chưa bao giờ dễ dàng, cho bất kỳ ai, cho bất kỳ điều gì, không riêng lãnh vực chính trị.
Ít nhất, cho đến nay, tôi có thể nói, tôi đã nhìn thẳng vào Sự Thật mà tôi biết, tôi tin một cách có căn cứ.
Từ
cảm giác giận dữ, dần dần tôi chuyển qua cảm giác nhục nhã. Nhục nhã vì
sự vong ân bội nghĩa của gia đình mình đối với Quốc Gia mà từ đó gia
đình tôi làm ăn khá giả một cách chân chính, còn bản thân tôi lớn lên từ
đó.
Tôi không có ý định chạy tội cho ba tôi hay những người thân khác. Suy cho cùng, gia đình tôi vừa là đồng
phạm, vừa là nạn nhân của cộng sản. Đó là sự thật. Ba tôi chưa bao giờ giết bất kỳ một ai.
Ba
tôi đã chết dưới tay người cộng sản. Tôi có căm thù không? Có. Có muốn
báo thù không? Đã từng. Điều mỉa mai, ba tôi chết không phải vì người
cộng sản trả oán hay trù dập mà cái chết của ba tôi đến từ sự “ân sủng”
dành cho ông – một người chưa bao giờ cầm một đồng tiền bất chính nào,
cũng như chưa bao giờ nhận bất kỳ sự “ban ơn” nào từ
người cộng sản.
Một
cái chết khá đặc biệt trong muôn vàn cái chết, do người cộng sản gây
ra. Có thể đó là một niềm an ủi cho tôi. Cũng có thể đó là một ơn huệ
của Ơn Trên, đã sắp đặt cho ba tôi một cái chết không hề nhơ nhuốc mà
nhuốm màu thê lương trong một con người thơ ngây và chơn chất. Nhưng đó
là câu chuyện quá vãng của gần 20 năm về trước, không phải những gì tôi
muốn viết hôm nay.
Tôi
có ba người chú ruột đều được “phong liệt sĩ”. Cả ba người đều chết
thời Pháp. Bà nội tôi được “tặng” “bà mẹ Việt Nam anh hùng”. Tôi có hai
người cậu ruột, trốn ngoại tôi để đi tập kết năm 1954. Hai người cậu
ruột khác lại làm trong chế độ VNCH. Hai người cậu này đều có chức phận
vào thời bấy giờ. Tôi có một người chị ruột làm trong nhà thương và
“thân cộng” lúc đó. Một người anh ruột là sĩ quan thuộc quân lực VNCH
(nhưng thật ra là VC nằm vùng), một người anh ruột khác là
hạ sĩ quan cũng thuộc quân lực VNCH (thuần túy là lính, không quan tâm
và tham gia vào chính trị, cũng như không phải VC nằm vùng). Tôi có vài
người anh, chị ruột nữa, họ là dạng “cách mạng 30/4″. Một số bà con thân
thuộc nội ngoại khác, người thì ở trong “khu”, người lại chống Cộng
triệt để. Vài người khác, người thì là quân nhân, người nữa lại là công
chức của VNCH v.v…
Hồi
trước 1975, đa số gia đình đều đông con. Ít thì ba, bốn; nhiều thì
chín, mười. Có gia đình lên đến mười hai – mười bốn người con, đều bình
thường trong nếp sống lúc bấy giờ. Một đời sống sung túc, hầu hết gia
đình khá giả, đều giống nhau suy nghĩ: nhiều con là phúc lộc Trời cho.
Chế độ VNCH cũng không có việc “sinh đẻ có kế hoạch”. Mắn đẻ lại là điều
tốt mà phụ nữ thời xưa luôn tự hào. Cuộc sống dung dị như thế. Không
chỉ riêng những gia đình giàu có mà có thể nói hầu hết đều tương tự như
vậy.
Dông dài như thế, để nói rằng giòng tộc nội ngoại của tôi khá phức tạp. Giá như…
Vâng,
chính cái “giá như” nó đã làm hầu hết giòng tộc, anh chị em đại gia
đình tôi “tan đàn xẻ nghé” từ dạo ấy. Dạo mà “rầm rập bước chân ta đi
rung chuyển đường phố Sài Gòn” với ngày 30/4/1975 (!)
Một giòng tộc như thế mà nói đến “đoàn kết” (như CSVN đang kêu gọi) thì quả là…hài kịch.
Ba tôi và anh chị tôi đã từng đi tù dưới chế độ VNCH. Ba
tôi ra tù sớm, chị tôi thì được tha bổng sau vài tuần tạm giam, vì không đủ chứng cớ kết tội.
Riêng anh tôi nhận án “20 năm khổ sai” và bị đày đi Côn Đảo cho đến (tất nhiên) 1975.
Điều tôi cám ơn Nhà Nước Việt Nam Cộng Hòa thật giản dị:
*-
Ngày ba tôi ra tù, ông vẫn mạnh khỏe. Về đến nhà chỉ một tuần sau là
ông có thể bắt tay trở lại công việc làm ăn.- Suốt thời gian ba và anh
chị tôi bị điều tra cho đến lúc kết án chính thức, gia đình tôi (những
người không liên quan) không hề bị săn đuổi, bắt bớ vô pháp, hành hung,
xách nhiễu v.v… Má tôi đã gánh vác mọi việc làm ăn vào lúc đó. Chúng tôi
vẫn đi học bình thường và sống trong môi trường không hề bị kỳ thị của
bất kỳ thầy cô hay bạn bè nào. Hàng xóm láng giềng cũng không vì thế mà
ghẻ lạnh,
hắt hủi hay tiếp tay như kiểu bây giờ mà người ta gọi là “đấu tố thời
đại mới”. – Anh tôi – người ở tù Côn Đảo, ngày trở về đất liền vẫn mạnh
khỏe, dù ốm o đen đúa, nhưng không hề mang thương tật gì cả [**].
*Cá nhân tôi*
Tôi
cám ơn Việt Nam Cộng Hòa, không chỉ vì tôi được sống trong một xã hội –
có thể chưa phải là tốt đẹp nhất – nhưng tốt đẹp hơn chế độ cộng sản 39
năm qua, mà tôi còn biết ơn vì tôi đã hấp thụ được nền giáo dục, có thể
nói, cho
đến nay 39 năm, dù VNCH không còn, dù CHXHCNVN cố gắng “cải cách” giáo
dục nhiều lần rất tốn kém nhưng không hề mang lại chút tiến bộ nào khả
dĩ.
Và nói cho công bằng, giáo dục hiện nay tính về chất lượng, vẫn không thể nào đạt được như trước 1975 của miền Nam.
Nền
giáo dục trước 1975 mà tôi hấp thụ, dù ngắn ngủi, nó thật sự là nền
giáo dục nhân bản và khai phóng. Trung thực và hiền lương. Ganh đua
nhưng không đố kỵ. Biết phẫn nộ nhưng không tàn ác. Đặc biệt nền giáo
dục đó giúp cho hầu hết học trò luôn biết dừng lại đúng lúc trước cái
sai với nỗi xấu
hổ và tính liêm sỉ – tựa như “hàng rào nhân cách” được kiểm soát kịp
thời.
Chính
xác hơn, tôi cám ơn Thầy – Cô của tôi, có lẽ bây giờ hầu hết đã qua
đời, nếu còn sống chắc cũng đã nghễnh ngãng hay quá già yếu.
Tôi biết ơn các Giáo sư [***]. Tôi muốn nói rõ: Tôi không hề có danh vị, bằng cấp gì cả.
Tôi biết ơn các Giáo sư [***]. Tôi muốn nói rõ: Tôi không hề có danh vị, bằng cấp gì cả.
Tôi
biết ơn Thầy – Cô của tôi, vì nhiều độc giả thương mến (có lẽ qua những
bài viết), họ ngỡ tôi là: giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ, nhà văn, nhà giáo
v.v… nhưng tôi thưa thật, tôi chỉ là một người “tay ngang” trong viết
lách. Qua từng bài viết, tôi rút ra kinh nghiệm. Đặc biệt, tôi luôn cố
gắng viết cẩn trọng và khách quan nhất để thuyết phục độc giả. Tính cách
này, tôi đã học từ Thầy – Cô tôi, ngày xưa. Dù môn Văn Chương ngày ấy,
tôi luôn nhận điểm thấp tệ.
Tôi
biết ơn Thầy – Cô của tôi cũng vì, sau 1975, cả nước rơi vào đói kém,
làm cho “tính người” trong xã hội cũng mai một dần và tôi không là ngoại
lệ. Thảm trạng xã hội lúc đó biến tôi trở nên chai lỳ, mất cảm xúc và
lạnh lùng.
Đặc biệt “chữ nghĩa” hầu như trôi sạch hết cùng những “tem phiếu”, “xếp sổ mua gạo”, chầu chực “mua nhu yếu phẩm” v.v… ngày xưa.
Về sau này, khi cuộc sống đỡ hơn, tôi có thời gian hơn cùng với thời cuộc đảo điên, dần dần, tôi cảm nhận tôi “trầm mình” trong nỗi đau của bản thân, gia đình, từ đó tôi mới thấu hiểu những điều ngày xưa tôi học và tôi giật mình vì sự lãng quên đáng trách đó.
Tôi tìm lại được “tính Người” mà bấy lâu nay tôi đánh mất.
Về sau này, khi cuộc sống đỡ hơn, tôi có thời gian hơn cùng với thời cuộc đảo điên, dần dần, tôi cảm nhận tôi “trầm mình” trong nỗi đau của bản thân, gia đình, từ đó tôi mới thấu hiểu những điều ngày xưa tôi học và tôi giật mình vì sự lãng quên đáng trách đó.
Tôi tìm lại được “tính Người” mà bấy lâu nay tôi đánh mất.
Một lần nữa, tôi cám ơn Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa và các Thầy – Cô của ngày xưa.
© Nguyễn Ngọc Già
Việt Nam 11/06/2014
Nguồn: RFA
Bài học từ cuộc chiến Việt Nam
Khi cuộc chiến tranh Đông dương lần thứ nhất và lần thứ hai chấm dứt, các nhà lãnh đạo đã rút ra những bài học, tôi xin đan cử
một số kinh nghiệm của họ như dưới đây
Bài học của Henri Navarre
Trước hết ý kiến của Tướng Henri Navarre, Tư lệnh quân viễn chinh Pháp tại Đông Dương (1)
Tháng
9/1945 người Pháp theo chân quân Anh vào Đông Dương giải giới quân Nhật
để chiếm lại thuộc địa này, họ còn nhiều quyền lợi như hầm mỏ, xí
nghiệp, đồn điền, dinh thự, đất đai… Việt Minh lãnh đạo cuộc kháng chiến
chống Pháp, được Trung Cộng viện trợ vũ khí ồ ạt và huấn luyện quân sự
từ 1950. Mới đầu cuộc chiến tranh chỉ giới hạn tại Việt Nam sau lan
rộng ra các nước Mên Lào thành ra chiến tranh Đông Dương. Từ 1952 Pháp
bị thiệt hại nhiều trước hỏa lực mạnh của Việt Minh, cuộc chiến của Pháp
nay không còn để chiếm lại thuộc địa vì chế độ thuộc địa đã cáo chung
mà chuyển sang chống Cộng Sản.
Những năm 1953, 54 Pháp nhận nhiều viện trợ của Mỹ, họ cũng cố giữ Đông
Dương, trả độc lập dần dần cho Việt, Mên, Lào để đưa vào Liên hiệp
Pháp.
Tháng
5/1953 Tướng Henri Navarre được cử sang Việt Nam để cứu nguy Đông
Dương, một năm sau Pháp bại trận tại Điện Biên Phủ, Navarre được triệu
về nước đầu tháng 6/1954. Năm 1956 ông viết Đông Dương Hấp Hối, Agonie
de l’Indochine để biện minh cho quân đội Pháp và cho chính ông về sự
thất bại này. Theo
Navarre sở dĩ thua trận do ở Trung ương Paris không có chính sách rõ
ràng về cuộc chiến, không yểm trợ đầy đủ, quân phí nghèo nàn, quân đội
thiếu thốn về cả nhân lực lẫn hỏa lực.. trong khi đối phương được Trung
Cộng viện trợ ồ ạt, họ có tinh thần và có đường hướng chính trị nghiêm
chỉnh.
Tôi
xin sơ lược một số nhận định của tác giả về bài học rùt ra từ cuộc
chiến Đông Dương lần thứ nhất 1946-1954. Navarre nói để có được những
bài
học từ sự thất bại ta phải phân tích đúng những nguyên nhân thật.Thế mà
ít khi sự phân tích này được đầy đủ hoặc nó không dựa trên những dữ
kiện giả mạo. Nhất là khi các nhà lãnh đạo chính trị có sai lầm, các
ông thường tránh trách nhiệm và đổ lỗi cho các nhà quân sự. Đó là cách
chạy tội cổ điển của các chính phủ, họ không biết chuẩn bị hoặc lãnh đạo
một cuộc chiến tranh. Sự qui trách nhiệm này sẽ không quan trọng nhiều
nếu nó chỉ có hậu quả là đưa các Tướng lãnh làm bung xung và cho các
chính trị gia lợi dụng để phô trương. Nó quan trọng ở chỗ nó làm tổn
thương đến tương lai đất nước, nó ngăn chận ta rút ra được một bài học
từ sự thất bại trong quá khứ để ta có thể tránh những tai họa ở tương
lai.
Sau
khi đã thất bại ở Đông Dương, những người đứng đầu chính phủ đã lãnh
đạo cuộc chiến tồi tệ và tìm hòa bình vụng về. Họ đã đánh lừa dư luận
cho rằng nguyên nhân chính, duy nhất là do Quân đội mà thực ra theo
Navarre những thất bại tất nhiên do chính trị. Sau khi đã thổi phồng vấn
đề, họ lấy cớ để đình chiến trong những điều kiện mà tình trạng quân sự
không được đặt ra. Những hậu quả do thất trận Điện Biên Phủ đem lại
những
kích thước thật, chúng ta định nghĩa thất bại thế nào?
Tại
Đông Dương các Tư lệnh quân đội viễn chinh kế tiếp nhau đều đã khinh
địch (2), nói riêng ra họ không nhận thức kịp thời sự thay đổi cơ bản
của sự thành lập quân đội chính qui Việt Minh. Kế hoạch này có thể tham
gia theo tầm vóc chiến lược và thách đố bộ máy chiến tranh quân sự của
Pháp, như thề là để địch đi trước mà ta khó theo kịp. Họ không thúc đẩy
việc thành lập Quân đội các
nước Liên kết (tức Việt, Mên, Lào) và như thế không có phương tiện
thành lập nhiều chủ lực quân cần thiết giữ nước để có tự do hành động,
bằng lấy bớt những đơn vị trong Quân đoàn viễn chinh.
Người
ta đã không thích nghi quân đội Pháp với tính chất của địch và với địa
thế. Họ chỉ chú ý tới hỏa lực nhưng không quan tâm tới sự lanh lợi nhẹ
nhàng, mưu lược, tin tức của quân đội. Họ không cần hiểu sự cần có một
kế họach dài hạn
được chính phủ chấp thuận cho họ những phương tiện cần thiết theo đuổi
có phương pháp kiên cường.
Đó
là những lời trách cứ bộ chỉ huy Sài Gòn (3) , nhưng có nhiều lý do bào
chữa. Trừ trường hợp Thống chế De Lattre (vừa là Tư lệnh, vừa là Tổng
cao ủy), các Tư lệnh quân đội Pháp tại Đông Dương phải dưới quyền các
công chức dân sự cao cấp: Toàn Quyền, Cao ủy, Tổng cao ủy. Tư Lệnh không
chủ động trong quyết
định mà phải theo một phạm vi chính trị. Chiến lược của Pháp không có
chính trị trái ngược với của Việt Minh. Viện trợ Mỹ cho Pháp khiến cuộc
chiến mang tính chất khác, nó cho ta hỏa lực nhưng nó cũng đăt gánh nặng
cho Pháp. Một khi vào con đường này không thoát ra được.
Các
nước Liên kết không lập được quân đội riêng không phải do ở ông Tư lệnh
Pháp mà vì họ không muốn vào con đường bấp bênh xa vời. Nói về không có
kế hoạch quân sự tổng quát
là vì không có kế hoạch chính trị cơ bản, bởi thế nói cho đúng thì lỗi
lầm quân sự ở Đông Dương không thể xác định được nhất là nguyên do ở
chính trị.
Một
trách nhiệm quân sự khác do ở Paris, Đông Dương không bao giờ được coi
là trọng tâm của ưu tư trong các Cơ quan quân sự mà chỉ coi nó là một
gánh nặng không muốn đóng góp mà chỉ chi tiêu một số tiền nhỏ thôi.
Chiến tranh Đông Dương luôn được thực hiện rẻ tiền bằng phương pháp
những
khoản nhỏ, chi phí thiếu hụt, sĩ quan, chủ lực quân bộ binh yếu kém,
quân đội thiếu huấn luyện, vũ khí lỗi thời không thích hợp. Không quân
được cung cấp chút ít về máy bay, nhân lực và hạ tầng cơ sở, phi trường.
Do đó các Tổng tham mưu trưởng kế tiếp nhau của Bộ Quốc phòng và các
TMT của Lục quân, Không quân chịu trách nhiệm nhiều, nhưng họ dưới quyền
Bộ trưởng và trách nhiệm sau cùng ở cấp Chính phủ.
Những
ông TTMT đã không đề nghị những
giải pháp thuận lợi, những quyết định hữu hiệu để nếu không tạo chiến
thắng thì cũng tạo được giải pháp chính trị thuận lợi cho cuộc chiến
tranh. Nếu họ làm thì chắc đã được vinh danh, nhưng không nghe nói tới.
Trong hệ thống chính trị của Pháp, người ta chỉ thích dùng người dễ sai
bảo. Những lý do thất bại căn bản là chính trị, từ đầu chí cuối cấp lãnh
đạo Ba Lê không bao giờ biết họ muốn gì hoặc hoặc nếu biết cũng không
dám xác nhận.
Họ không bao giờ dám nói cho đất nước biết có chiến tranh tại Đông Dương.
Họ không biết đưa quốc gia vào cuộc chiến cũng không tìm hòa bình.
Họ
không có
khả năng định nghĩa sự lãnh đạo đối với các nước Việt, Mên, Lào mà cứ
xài những giải pháp lai căng cũ rich. Họ không có can đảm lựa chọn thẳng
thắn giữa chế độ thuộc địa mà đã tuyên bố bỏ nhưng cũng muốn giữ những
quyền lợi vật chất dưới danh nghĩa khác. Họ cũng muốn lập một Liên hiệp
các nước tự do mà họ muốn nhưng thực hiện chậm.
Họ không định được vị trí liên quan giữa Pháp và Mỹ, chỉ biết xin viện trợ mà cuối cùng có hại
nhiều hơn lợi, người ta cố ý phá những quyền lợi của Pháp bằng đường lối ích kỷ.
Đối
với cuộc chiến mà họ không biết định nghĩa mục đích của nó, các nhà
lãnh dạo chính phủ không cho nó một đặc tính quốc gia, không biết nói
cho cả nước biết lý do Pháp tham chiến. Tự cấm mình không đòi họ hy sinh
để chiến thắng vì thế họ cũng tự nguyện ru ngủ đất nước bằng những bài
diễn văn lạc quan, dễ dãi với bọn chủ
bại và cuối cùng để quân đội nhà nghề chiến đấu một mình không được
nâng đỡ về tinh thần, không đủ phương tiện vật chất.
Ngoài
ra họ lại để quân đội bị đánh sau lưng (4) họ khoan dung cho những sự
phản bội của đảng Cộng Sản và đồng bọn, cho báo chí được quyền bất khả
xâm phạm, làm mât tinh thần các chiến sĩ có hại cho quốc gia và phổ biến
những bí mật quân sự. Do dự, sai lầm, hèn nhát tích lũy từ tám năm quá
nhiều không biết qui
trách cho ai, cho Chính phủ nào. Đó là kết quả của chế độ tự do, nó bắt
nguồn từ bản chất, hệ thống chính trị Pháp. Một chế độ làm mất uy quyền
quốc gia mà tinh thần chung của quốc gia biến mất. Nó ngăn cấm sự vững
chắc của chính quyền thay thế bằng chủ nghĩa kinh nghiệm rời rạc nơi mà
đảng phái không thể hiện lý tưởng mà chỉ vì quyền lợi. Nỗ lực bầu cử,
kết hợp những nhà lãnh đạo vô trách nhiệm, bất lực về đối ngoại, nhượng
bộ địch và phụ thuộc vào đồng minh.
Một
chế độ hủy bỏ tinh thần quốc gia, cô lập quân đội với chính phủ, không
cho quân đội một chỗ tinh thần, một nơi vật
chất mà không có nó quân đội không thể tồn tại. Chế độ khuyến khích che
chở những lời vu khống mạ lỵ, một chế độ mà một đảng (Cộng Sản Pháp)
công khai nhận lệnh bên ngoài, phản bội tự do. Chế độ mà báo chí biến
thành một công ty làm suy yếu tinh thần quốc gia và cung cấp tin cho
địch. Một chế độ như thế không thể đương đầu với một cuộc chiến dù trong
đế quốc của mình hay tại biên giới chính quốc (Métropole). Hệ thống
chính trị trong bốn thập niên xưa đưa dất nước đã từng chiến thắng năm
1918, thành một bệnh nhân yếu đuối ở Âu châu và trong những thập niên
tới sẽ suy yếu già nua.
Đó
là những bài học từ cuộc chiến Đông Dương, nó thể hiện trong tất cả các
lãnh vực, mọi người Pháp có thể suy nghĩ và sẽ cảm thấy một sự mâu
thuẫn giữa việc giữ chế độ và giữ cho nước Pháp như một cường quốc.
Nhiều người sẽ còn tự hỏi nếu kết luận này có thể áp dụng cho cả Tây
phương không? Và nếu đối phó với chủ nghĩa Cộng Sản và chủ nghĩa Quốc
gia mà người ta đang hun đúc, những chế độ dân chủ sẽ
bị hủy hoại như thành La mã suy tàn hay Byzance (Hy lạp) trước quân thù
mọi rợ (5). Nếu chế độ không thay đổi cùng những lý do đã mất Đông
Dương hôm qua, ngày mai sẽ mất Bắc Phi và tất cả những gì thuộc về Đế
quốc Pháp. Những nguyên do chống lại Pháp ở Đông Dương sẽ xuất hiện
trong đế quốc nhất là tại châu Phi.
Nhìn
chung, Navarre ghi nhận những nhược điểm của chính phủ Pháp trước cuộc
chiến như không tha thiết, không đặt tầm quan trọng cho cuộc
chiến. Người ta đã không trang bị đầy đủ về vật chất, không có một ý
hướng chính trị trong khi đối phương Việt Minh, phía Cộng Sản có đường
hướng rõ ràng lại có hoả lực mạnh nhờ viện trợ của Trung Cộng. Thực ra
người Pháp không có chính nghĩa, quân Pháp quá tàn ác trong các cuộc
hành quân, người Việt nam tại miền quê đều biết cả. Chế độ thực dân đã
lỗi thời, đó là tất cả những nguyên do đưa tới thất bại sụp đỏ Đông
Dương. Nhưng Navarre cũng quá bi quan trong nhận định về hiểm họa chủ
nghĩa CS khi ông cho rằng Tây phương, chế độ dân chủ sẽ bị suy tàn trước
các nước Cộng sản nghèo đói.
Bài học của Robert S. McNamara.
Tôi
xin đề cập tới ý kiến của McNamara, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ 1961-1968
(6). Năm 1960 nhận lời mời làm Bộ trưởng quốc phòng, McNamara được toàn
quyền cai quản, sau này được TT
Johnson tin tưởng cũng giao cho ông soạn thảo kế hoạch, chiến lược cho
cuộc chiến VN. Người ta cũng gọi ông là Kiến trúc sư của cuộc chiến VN.
Năm 1995 McNamara viết Hồi Tưởng, Thảm Kịch Và Bài Học Của Việt Nam kể
lại diễn tiến cuộc chiến can thiệp tại VN giữa thập niên 60 và cũng để
biện minh cho sự thất bại của mình. Hoa kỳ bắt đầu đưa nhiều quân vào
miền Nam từ giữa 1965, đến cuối năm này họ có 184, 000 lính tại miền nam
VN, hàng năm đều cho tăng quân, tới 1968 lên đến 530,000.
Cựu
bộ trưởng nói Mỹ rút khỏi nam VN 1973, mất hơn 58,000 người, kinh tế bị
ảnh hưởng nặng vì chiến phí , xã hội bị chia rẽ trầm trọng, có đáng
phải trả giá cao như vậy không? Dean Rusk, Walt Rostov, Lý Quang Diệu…
và nhiều nhà chính trị khác tới nay cho là đúng, họ nói nếu Mỹ không can
thiệp vào VN, CS đã bành
trướng tại các nước Đông nam Á như Nam Dương, Thái Lan và Ấn độ. Có
người đi xa hơn nói Sô Viết sẽ thừa cơ gây ảnh hưởng khắp nơi trên thế
giới nhất là Trung Đông. Khi những văn khố của Nga, Trung Cộng, Việt Nam
cho các nhà học giả tham khảo thì ta mới thấy ý định thực sự của họ.
McNamara cho rằng nguy cơ CS gây hấn trong bốn thập niên thời chiến
tranh lạnh là có thật, tuy nhiên suốt những thập niên 50, 60, 70, 80 Tây
phương nhận định sai và phóng đại nguy cơ của phương Đông (CS) này lên.
Cho
là vậy, McNamara đặt vấn đề ảnh hưởng Nga, Trung Cộng sẽ như thế nào
nếu Mỹ không vào Đông Dương hoặc rút bỏ Việt
Nam từ giữa thập niên 60. Ông nói điều hiển nhiên là TT Kennedy gửi cồ
vấn sang VN không hiệu quả vì tình hình chính trị không ổn định và khó
thực hiện và nam VN mặc dù được Mỹ huấn luyện và viện trợ tiếp liệu họ
không tự vệ chống CS được.
Theo
McNamara (7) Hoa Kỳ có ba cơ hội để rút bỏ
VN từ cuối 1963 khi tình hình xáo trộn sau khi ông Diệm bị đảo chính
hoặc cuối 1964, hay đầu 1965 khi VNCH yếu kém về chính trị và quân sự.
Ông không tin nếu Mỹ rút khỏi VN và nói cho người dân Mỹ cũng như thế
giới biết sẽ khiến Tây Âu và Nhật mất tin tưởng và đòi ta bảo đám an
ninh cho họ vì sợ hãi. Trái lại ông cho rằng Mỹ phải rút bỏ VN để giữ
lực lượng bảo vệ những nơi khác để làm cho họ tin ta hơn.
Có
người cho rằng thế giới sau thời chiến
tranh lạnh sẽ khác hẳn thế giới hồi xưa nên bài học cuộc chiến VN sẽ
không áp dụng được, không liên hệ gì tới thế kỷ 21, McNamara bác bỏ ý
kiến này. Nếu không học hỏi từ quá khứ ta sẽ đi mua thất bại, tất cả có
11 nguyên nhân đưa tới thảm họa ở VN.
1-Nhận định sai về ý đồ, tham vọng của địch, phóng đại mối nguy của địch
2-Chúng
ta tưởng các nhà lãnh đạo miền nam VN khao khát và kiên quyết chiến đấu
cho tự do dân chủ. Ta đã đánh giá sai hoàn toàn lực lượng chính trị
trong nước họ.
3-Chúng ta đánh giá thấp tinh thần quốc gia đưa dân tộc chiến đấu đến chết cho niềm tin của họ ở đây cụ thể
lả BV và VC, chúng ta vẫn tiếp tục sai lầm trên thế giới.
4-Chúng
ta đánh giá sai bạn, thù chứng tỏ ta mù tịt về lịch sử, văn hóa chính
trị của người dân trong vùng cũng như con người các nhà lãnh đạo của họ.
Trên thực tế không có nhân vật Đông nam Á nào để ta tham khảo ý kiến
trước khi quyết định về VN.
5-Chúng
ta không hề nhận thức được giới hạn của của vũ khi tối tân và không có
lý thuyết để đương đầu với phong trào nổi dậy bằng chiến tranh không qui
ước. Ta không tranh thủ nhân tâm với dân tộc có văn hóa khác biệt ta
hoàn toàn.
6- Chúng ta đã không đưa Quốc hội , người dân vào cuộc tranh
luận, bàn thảo khoáng đại để ủng hộ hay chống lại việc can thiệp qui mô của Mỹ vào Đông nam Á trước khi hành động.
7-Khi
ta tiến hành việc can thiệp có nhiều biến cố buộc ta phải bỏ kế hoạch,
ta thất bại không giữ được sự ủng hộ của người dân vì ta đã không giải
thích đầy đủ về diễn tiến và tại sao ta can thiệp. Sức mạnh của một quốc
gia không nắm ở quân sự mà ở sự đoàn kết dân tộc, ta thất bại ở điểm
này.
8-Trong
khi an ninh đất nước ta không bị trực tiếp
đe dọa, việc quan tâm một nước khác cần bàn thảo tại nghị trường quốc
tế. Chúng ta không có quyền buộc mỗi nước theo mô hình ta muốn.
9-
Chúng ta không theo nguyên tắc khi Mỹ chưa bị trực tiếp đe dọa, hành
động can thiệp của ta phải được nhiều nước tham gia thực sự chứ không
phải chỉ tượng trưng mầu mè.
10-Chúng
ta không biết trong vấn đề quốc tế có thể có những vấn đề không cần
giải pháp tức thời, ta phải chấp nhận một thế giới không hoàn hảo
11-Ta
thất bại vì không phân tích và thảo luận về hành động của ta tại Đông
Nam Á, mục tiêu, những sự nguy hiểm, tốn kém của một đường lối khác, và
phải thay đổi phương thức khi thất bại rõ ràng.
Sau
đó tác giả nói về bài học VN áp dụng cho Mỹ thời sau chiến tranh lạnh,
ông nói những thất bại ấy liên kết nhau, mỗi thất bại là một nút quan
trọng. Lấy ra những sai lầm ấy khiến ta có một bài học của VN và sẽ áp
dụng cho thời sau chiến tranh lạnh. Giữa thập niên 80 chiến tranh lạnh
chấm dứt, các nước chưa xét lại chính sách ngoại giao, quốc phòng vì
chưa biết tương lai sẽ ra sao.
Thế
rồi Iraq tiến chiếm Kuwait, nội chiến tại Nam Tư cũ, những biến cố tại
Chechnya, Somalia, Haiti, Sudan, Burundi, Armenia và Tajikistan cho
thấy thế
giới trong tương lai không bao giờ hết chiến tranh, nội chiến, chiến
tranh với nước khác. Xung đột chủng tộc, tôn giáo vẫn còn mãi. Chủ nghĩa
quốc gia sẽ là sức mạnh trên thế giới
Thê
giới tương lai sẽ không khác gì trong quá khứ, tranh chấp trong và
ngoài nước vẫn y như thế, trong 45 năm qua có 125 cuộc chiến khiến cho
40 triệu người tại thế giới Thứ Ba bị thiệt mạng. Thế giới trong tương
lai sẽ không khác gì ngày nay và quá khứ, nội chiến, chiến tranh
giữa các nước sẽ không bao giờ hết. Nhưng tương quan giữa các nước sẽ
thay đổi rất nhiều. Thời hậu chiến Hoa Kỳ sẽ là một siêu cường có thể
xếp đặt thế giới theo ý mình nhưng thế kỷ sau sẽ không có khả năng làm
chuyện ấy. Trong tương lai Nhật sẽ đóng vai trò quan trọng về kinh tế,
chính trị và Âu châu trong tương lai cũng vậy.
Thế
kỷ sau các nước Thứ Ba sẽ tăng rất nhanh về dân số, kinh tế như Ấn độ,
Nigeria, Ba Tây. Nếu Trung Cộng đạt mục
tiêu kinh tế năm 2000 tiếp tục như thế nhưng không tăng trưởng mạnh
trong 50 năm nữa, họ sẽ có lợi tức, sẽ ảnh hưởng Tây phương giữa thế kỷ
20. Tổng sản lượng sẽ vượt qua Mỹ, Tây Âu, Nhật, Nga, đó sẽ là một siêu
cường đáng kể.
Mặc
dù vẫn là siêu cường, nước Mỹ ở trong một thế giới đa cực, Mỹ sẽ phải
thay đổi chính sách ngoại giao, quốc phòng cho phù hợp với thực tại.
Trong thế giới đó cần có bang giao, quan hệ mới giữa các siêu cường
Trung Hoa, Âu châu, Nhật, Nga và Mỹ, giữa các siêu cường và các nước
khác. Chiến tranh lạnh chấm dứt không có nghĩa là chiến tranh sẽ chấm
dứt.
McNamara
cho rằng người Mỹ can thiệp vào Đông Dương từ đầu thập niên 60 và nhất
là đưa quân vào Việt Nam 1965 là sai lầm, đáng lý phải rút ra từ cuối
năm 1963 hay đầu năm 1964. Mục đích của ông muốn nói cuộc chiến là sai
lầm để biện minh cho kế hoạch quân sự thất bại tại VN của chính mình.
Bài học của Richard Nixon
Cuối
cùng tôi nói tới ý kiến của Nixon, Tổng Thống Hoa Kỳ từ 1969-1974 (8).
Năm 1985 ông viết No More Vietnams, Không Còn Những Vietnam để kể lại
quá trình của ông giải quyết cuộc chiến VN, sự thất bại do Quốc hội đối
lập và kết luận đó là một bài học, từ nay sẽ không còn thất bại như tại
VN.
Nixon
nói thế chiến Thứ Ba, Third World War bắt đầu trước khi Thế chiến Thứ
hai chấm dứt, Sài Gòn thất thủ 10 năm qua đó là thắng lợi lớn nhất của
Sô viết, một trong những trận cơ bản nhất của Thế chiến Thứ ba. Không
một người lính Nga nào chiến đấu tại VN nhưng nó là một chiến thắng cho
Moscow vì Bắc Việt đồng minh của họ thắng, Nam VN và Mỹ thua. Sau khi
Hoa kỳ không ngăn chận được CS ở VN họ bị thua nhiều nơi khác. Những
người theo chủ thuyết cô lập (không can thiệp) hát “Không còn có những
Việt Nam” trong khi đó quân cờ domino rớt từng con một: Mên, Lào,
Mozambique 1975, Angola 1976, Ethiopia 1977, South Yemen 1978, Nicaragua
1979.
Reagan
lên làm TT 1981, Mỹ không bị mất thêm nước nào nhưng bóng ma VN vẫn ám
ảnh những cuộc thảo luận về viện trợ El Salvador hay những người chống
Cộng tại Nicaragua. Nếu ta thất bại không ngăn được Sô Viết giúp các lực
lượng gây hấn ở bán cầu chúng ta, ta sẽ ít hy vọng ngăn được họ khi
quyền lợi ta bị đe dọa ở các nước khác. Ta phải tự gột bỏ những ám ảnh
bệnh hoạn hiện tượng Việt Nam nếu muốn tránh những thất bại khác của Thế
chiến Thứ ba. Không ai muốn có một VN khác, họ sợ rằng bất cứ sự can
thiệp nào trong các nước Thế giới Thứ ba sẽ có thể đưa tới một VN khác.
Những người theo phái “Cô lập” cho rằng Mỹ không có quyền lợi chiến lược
ở Thế giới Thứ ba nên ta không can thiệp quân sự, giới hạn viện trợ và
ngoại giao. Nixon cho đó là những nhận định sai lầm, hai phần ba dân số
thế giới sống trong những nước phát triển châu Á, châu Phi, Trung
đông,châu Mỹ La tinh, họ có nhiều nguyên liệu cần thiết cho kỹ nghệ các
nước Tây phương. Năm ngoái (1984) ngoại thương của Mỹ với các nước Thế
giới Thứ ba là 175 tỷ Mỹ kim bằng ngoại thương của cả Nhật và Tây Âu
cộng lại
Nếu
ta để hàng triệu người chịu số phận của dân tộc VN và các nước Thứ Ba
chịu ách độc tài là bất nhân. Thế giới Thứ ba bị đe dọa hòa bình nhiều
nhất, có 20 cuộc chiến và 10 triệu người bị giết. Ta không có quyền lợi
để cai trị Thế giới Thứ ba nhưng ta có lợi khi ngăn chận Sô Viết. Từ
1974 họ đã chiếm được 9 nước mà không phải đem quân qua, từ cuộc chiến
Triều Tiên, Sô viết đã tiến tới biên giới nhiều nước. CSBV với súng ống
Nga, Tầu viện trợ gây chiến với nam VN. Tại Cuba, Nicaragua và Sô Viết
giúp bọn cướp
chính quyền dưới chiêu bài chiến tranh giải phóng. Tại Angola và
Ethiopia Sô Viết dùng quân ủy nhiệm Cuba giúp các nhà lãnh đạo CS cướp
chinh quyền.
Nếu
ta chuẩn bị cuộc chiến hiện tại bằng cách phòng vệ hôm qua ta sẽ thất
bại. Nay những trận quan trọng không ở dọc biên giới mà sẽ sẩy ra tại
những nước xa xôi. Sô Viết nhúng tay xúi dục, yểm trợ cướp chính quyền
những nước không CS. Mặc dù có sức mạnh nguyên tử nhưng ta không tự sát
mà dùng nó. Có
sức mạnh về chiến tranh qui ước nhưng không thắng được kẻ thù vì chúng
không đánh qui ước; ngoại giao không thể thành công nếu không có quân
sự.
TT
Nixon nói (9) năm 1969 rút kinh nghiệm ở VN, Mỹ có thể bất đắc dĩ lắm
mới đưa quân tham chiến ở một nước thứ ba mà ông ta đã làm thành chủ
thuyết Nixon. Ông chủ trương trong tương lai, trừ khi một siêu cường can
thiệp vào một cuộc chiến của Thế giới Thứ ba, Hoa kỳ sẽ không gửi quân.
Chúng ta sẽ cung cấp
viện trợ quân sự, kinh tế cho nước ấy bằng với số viện trợ Sô Viết cung
cấp cho lực lượng nổi dậy nhưng nước bị tấn công phải chịu trách nhiệm
cung cấp nhân lực để tự vệ. Nếu sau khi ta đã huấn luyện và trang bị,
một quốc gia vẫn không đủ khả năng và ý chí để thắng địch, dù ta có
chiến đấu cho họ cũng chỉ thắng lợi tạm bợ, khi ta rút đi, kẻ địch chiếm
ngay. Chúng ta sẽ không bao giờ sai lầm như đã làm ở VN. Chương trình
Việt Nam hóa chiến tranh đáng lẽ phải được thực hiện khi bắt đầu cuộc
chiến (1965) hơn là 4 năm sau khi Mỹ đã gửi hơn 500 ngàn quân tới trận
địa.
Học
thuyết này không có
nghĩa là Mỹ rút khỏi Á châu và các nước khác nhưng tạo cơ bản cho các
nước bạn chống CS xâm lăng. Trong chương trình huấn luyện chúng ta cần
phải tránh một sai lầm nữa đã làm ở VN: Thành lập quân đội cho đồng minh
theo mô hình Mỹ và như thế chỉ chú trọng khả năng trong chiến tranh qui
ước mà ít chú ý tới du kích chiến. Quân đội cần được trang bị và huấn
luyện thích hợp. Chi tiền cần phải đúng chỗ có hiệu quả hơn thí dụ như
El Salvador có máy bay phản lực tối tân đánh du kích không có máy bay.
Một
sai lầm thứ ba của nhiều người Mỹ trong những năm cuối của chiến tranh
VN về việc ủng hộ các nhà lãnh đạo
đồng minh. Những người cấp tiến nói ta ủng hộ những nhà độc tài là có
tội, họ nói sai, chính quyền độc tài áp bức nhất vẫn là CS. Ở Cuba dưới
chế độ Castro quá tệ so với Batista, thời Lê Duẫn quá tồi tệ so với thời
Nguyễn Văn Thiệu. Căm bốt quá thậm tệ dưới thời Pol Pot hơn thời Lon
Nol. Ta có thể áp lực một chính phủ không CS đang cầm quyền (như VNCH)
áp dụng nhân quyền nhưng nay thì vô phương. Ta sẽ
không bao giờ lật đổ một chính quyền để có được chút tự do nhưng ngoài
ra nó chẳng mang lại gì. Đây là bài học sâu sắc của chiến tranh VN.
Tác
giả nói (10) sau cùng chúng ta không nên sai lầm giúp đồng minh chống
bọn phản loạn mà không biết nguồn gốc của nó, ta viện trợ cho El
Salvador mà không áp lực Nicaragua và các nước khác trong khối Sô viết
viện trợ cho phản loạn. Giúp một nước chống lại xâm lăng CS là điều khó,
giúp lực lượng chống CS trong một
nước mà CS đã nắm quyền còn khó hơn nữa. Ta phải giới hạn hành động của
ta và không sai lầm như 1956 tại Hung Gia Lợi và 1961 tại Vịnh Con Heo,
tại đây ta đã khuyến khích cổ võ những người nổi dậy chống chế độ CS và
ta đã thất bại không giúp được họ khi bị chính quyền CS đàn áp mạnh
bằng lực lượng lớn.
Ta
không thể để sự thất bại ở VN che dấu một sự thật rõ ràng là nếu không
có viện trợ quân sự và ý muốn xử dụng nó trong những trận
quyết liệt tại các nước Thừ Ba, ta sẽ thua cuộc Thế chiếnThứ ba. Các
nhà quân sự Mỹ sau bài học VN cho rằng nay ta chỉ đưa quân nếu vấn đề
phải là sinh tử cho lợi ích quốc gia hay của đồng minh. Khi gửi quân chỉ
có mục đích thắng, phải có đủ phương tiện và được Quốc hội, người dân
ủng hộ, không phải quyền lợi của ta chỉ giới hạn tại Tây Âu, Nhật, Trung
đông.
Do
Thái chỉ có 4 triệu dân trong số 100 triệu người ở Trung đông, không
phải là
đồng minh chính thức của Mỹ, khi Do Thái bị tấn công các Tổng thống Mỹ
đều bảo vệ Do thái. Quyền lợi của ta đối với sự sống còn của Do Thái là
vì một nước dân chủ nằm giữa một vùng toàn là những nước độc tài, vả lại
Sô Viết viện trợ rất nhiều cho các nước chống Do thái.
Nếu
ta định nghĩa quyền lợi ta rất nhỏ hẹp vì sợ bài học VN ta sẽ bỏ rơi
nhiều triệu người rơi vào tay độc tài, sẽ thua cuộc chiến Thứ Ba. Thất
bại ở VN chỉ là
tạm thời lùi một bước sau nhiều thắng lợi. Ta cần phải học một bài học
từ thất bại này, tại VN chúng ta đã nỗ lực vì một nguyên nhân chính đáng
và đã thất bại, No More Vietnams không có nghĩa là ta sẽ không nỗ lực
lần nữa. Nó có nghĩa là chúng ta sẽ không thất bại (11)
Nhận định chung
Henri
Navarre đưa ra bài học VN để áp dụng cho Đế quốc Pháp, một đế quốc nhỏ
nhưng Nixon và McNamara đem bài học VN ra áp dụng cho Thế giới Thứ ba vì
nước Mỹ là “ông Trùm”.
Navarre
đưa những kinh nghiệm thất bại tại Đông Dương để áp dụng vào châu Phi
khi phong trào quốc gia được CS ngầm cổ võ và lại được chính sách Mỹ
khuyến khích. Theo ông, Bắc Phi gần Pháp hơn Đông Dương về địa lý và
nhiều phương diện khác. Mặc dù Navarre giới hạn
những bài học cho Đế quốc Pháp, những kinh nghiệm ông ta đề cập trong
Đông Dương Hấp Hối cũng có thể rút ra cho người Mỹ khi họ can thiệp vào
VN. Trước hết đây là cuộc chiến tranh không biên giới. Về địa lý ông cho
biết VN nhiều đồi núi, rừng ruộng; về chiến thuật chiến lược, lối đánh
du kích của đối phương khác hoàn toàn đối với chiến tranh qui ước của
Tây Phương. Kẻ địch thống nhất ý chí, có mục tiêu
rõ ràng, có tinh thần kiên quyết và sẵn sàng hy sinh nhân mạng cho mục
tiêu.
Những
kinh nghiệm kể trên có thể giúp Hoa kỳ khi bắt đầu có nhiều ảnh hưởng
miền nam VN từ năm 1955 nhưng người Mỹ không một chút quan tâm vì họ tin
tưởng vào hỏa lực, sức mạnh của mình. Người Mỹ chủ quan nghĩ rằng quân
đội của họ mạnh hơn Pháp có thể áp đảo đối phương CSBV.
Giữa
năm 1965 Hoa kỳ ồ ạt đưa quân vảo miền nam VN vì tình hình tại đây
đang bị nguy kịch, mỗi tuần mất một tiểu đoàn và một quận, VNCH có thể
mất trong vòng 6 tháng (12). Tướng Tư lệnh Westmoreland khẩn thiết xin
Bộ Quốc phòng cho tăng viện vì miền nam VN bị tổn thất nặng.
McNamara
nói cuộc chiến VN khiến Mỹ chết người, tốn của, xã hội phân hóa, một sự
sai lầm trầm trọng, nguy cơ CS thời chiến tranh lạnh là có thật. Ông
nói tuy nhiên các thập niên 50, 60, 70, 80 Tây phương nhận định sai và
phóng đại nguy cơ CS, Hoa Kỳ đầu thập niên 60 gửi cố
vấn sang VN, huấn luyện và viện trợ tiếp liệu cho VNCH nhưng họ không
tự vệ chống CS được mà Mỹ phải đem quân vào chiến đấu cho họ.
Ông
ta nói sai sự
thật, trừ năm 1973 miền Nam mạnh hơn miền Bắc nhờ Nixon viện trợ ồ ạt
tháng 11-1972 (13) , không bao giờ quân viện của Hoa kỳ cho VNCH ngang
bằng viện trợ của Nga, Tầu cho CSBV. Những năm 1953, 1954 Quân lưu động
của Việt Minh tương đương với 9 sư đoàn, trong khi Pháp chỉ tương đương
với 3 sư đoàn (14). Quân viện của Mỹ cho Pháp (chiếm 79% chiến phí
1954) cũng thua kém xa quân viện của Trung Cộng cho Việt Minh và họ đã
thắng trận Điện Biên Phủ.
Đương
đầu với kẻ địch hùng hậu, từ năm 1955 tới đầu thập niên 60 Hoa kỳ đã
không viện trợ cho miền Nam tương đương khiến năm 1965 VNCH đã bị tổn
thất nặng như đã nói trên. Chúng ta chưa hề thấy một nhà chính khách,
quân sự Mỹ nào chịu nhìn nhận viện trợ quân sự của họ không theo kịp
trang bị của CS quốc tế cho BV, VNCH luôn không đủ hỏa lực để tự vệ. Vấn
đề này tôi đã đề cập trong một bài viết về quân viện của hai miền.
McNamara
nhận
định cuộc chiến VN là sai lầm, đáng lý Hoa Kỳ phải rút ra từ cuối 1963
hoặc cuối 1964, đầu 1965, thật ra chỉ là chuyện hoàn toàn không tưởng.
Tháng 8-1964 Quốc hội Mỹ biểu quyết chấp thuận Nghị Quyết Vịnh BV ủng
hộ TT Johnson tham chiến tại VNCH với tỷ lệ 99.60% (15) và theo thăm dò
số người dân ủng hộ cuộc chiến tỷ lệ rất cao 85% (16).
Tháng
12-1964, Hội đồng quân lực VNCH đã yêu cầu Quốc trưởng Phan Khắc Sứu và
Thủ tướng Trần văn
Hương trục xuất Đại sứ Mỹ Taylor mà họ cho là có thái độ hống hách
(17). Trong tường trình cuối năm về Tòa Bạch ốc, Taylor có đề nghị rút
bỏ miền nam VN (18) nhưng không được chú ý vì hồi đó đại đa số người
dân, Chính phủ, Quốc hội Mỹ đều ủng hộ chính sách be bờ bảo vệ Đông nam
Á. Nước Mỹ đang sợ hãi CS vì tin mạnh vào thuyết Domino, thử hỏi
Johnson-McNamara có thể rút bỏ VNCH được không? Quốc hội và người dân có
cho phép các ông rút trong khi cả nước Mỹ đang lo ngại sự bành trướng
của CS tại Đông nam Á?
Duyệt
qua 11 nguyên nhân đưa tới thảm họa ở VN của McNamara như trên ta thấy
điểm thứ 1
ông cho thuyết Domino sai, thực ra nó chỉ sai sau này khi Nga, Trung
cộng đã mệt mỏi vì phải giúp BV một lượng quân viện khổng lồ. Năm 1995
ông nói thuyết này sai vì đã yên chí lớn, Hoa kỳ đã bắt tay được với CS
quốc tế từ 1972. Điểm 2 ông cho rằng các nhà lãnh đạo VNCH không kiên
quyết chiến đấu cho tự do dân chủ, điểm 3 CS BV và VC có tinh thần quốc
gia cao chiến đấu tới cùng vì độc lập. Những điểm vừa rồi đã được Nixon
nêu ra trong No More Vietnams (trang
9, 10) và cho
là hoàn toàn sai. Đó là tư tưởng của phong trào phản chiến, là người
đứng đầu Bộ quốc phòng, McNamara lại dùng quan điểm phản chiến thì thật
hết ý kiến. Điểm 5 ông đánh giá người Mỹ thiếu sót về chiến lược, vũ khí
tối tân không đánh được du kích, sơ sót này do ông không học hỏi thêm ở
người Pháp, họ đã có nhận định như vậy từ thập niên 50. Điểm 6 ông nói
trước khi đem quân vào VN phải đưa ra Quốc hội và quốc dân bản thảo,
chẳng lẽ ông quên rằng năm 1964, 1965 đại đa số Quốc hội và người dân
Mỹ đã tin vào thuyết Domino và ủng hộ Mỹ đem đại binh vào VN ngăn chận
CS xâm lăng?
Điểm
7 cựu Bộ trưởng nói về sự thiếu đoàn kết vì bị dân chống đối, sai lầm
vì không giải thích cho người dân tại sao ta can thiệp. Sự thật không
phải như vậy mà là kế hoạch McNamara sai lầm kéo dài chiến tranh chết
nhiều lính đã khiến phong trào phản chiến lên cao đưa tới sụp đổ. Điểm 9
ông cho biết việc can thiệp tại VN phải được nhiều nước thực sự tham dự
chứ không phải chỉ tượng trưng. Điều này hơi khó, sự can thiệp vào VN
là vì quyền lợi của Hoa kỳ, vì thuyết môi hở răng lạnh và vì muốn giữ
địa vị siêu cường, nên Mỹ phải hy sinh khó có thể đòi hỏi ở các nước
khác. Điểm 11 ông nói về sự thay đổi đường lối khi đã thất bại, trong
khoảng 1965-1968, McNamara nắm toàn quyền kế hoạch quân sự tại VN, mặc
dù nắm trong tay hơn 500 ngàn quân, được người dân, Lập pháp ủng hộ
nhưng ông đã thất bại và không hề thay đổi phương thức.\
No
More Vietnams trang 81, Nixon chỉ trích kế hoạch chiến tranh giới hạn
sai lầm của Johnson – McNamara những năm 1965, 1966, 1967 chỉ oanh tạc
giới hạn miền Bắc và đánh hao mòn lực lượng địch
ở miền Nam và không cho đánh qua hậu cần địch bên kia biên giới Mên,
Lào. Nixon nói đáng lý phải đưa một lực lượng lớn đánh lên trên hoặc
dưới vĩ tuyến 17 rồi tiến về phía Tây Lào tới sông Cửu Long để ngăn chận
địch. Các cuộc oanh tạc của Johnson có mục đích chính trị nhiều hơn như
nâng cao tinh thần VNCH và cho BV thấy sự thiệt hại để ngồi vào bàn hội
nghị, đó là điều ngây thơ. Nixon nhận định chiến tranh leo thang của
Johnson-Mcnamara để dụ cho địch vào bản hội nghị là sai lầm, không thể
mơn trớn CS từ bỏ cuộc chiến mà phải buộc họ từ bỏ nó.
Ông
Cao Văn Viên (19) cũng nhận định Johnson-McNamara đã không cho đánh phá
các căn cứ hậu cần CS bên kia biên giới Mên, Lào và đã thất bại
“Bộ TTM Hoa
Kỳ cùng đô đốc Sharp và đại tướng Westmoreland, đều có kế hoạch đánh ra
vùng bắc khu phi quân sự, cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh, đánh phá các
căn cứ ở Lào, Cam Bốt, và oanh tạc các mục tiêu quan trọng chung quanh
Hà Nội, Hải Phòng. Các kế
hoạch trên đều không được tổng trưởng quốc phòng McNamara và tổng thống
Johnson (1967) chấp thuận”.
Ngày
6/4/1969 Tướng Westmoreland, cựu Tư lênh quân đội Mỹ tại VN và Ðô đốc
Sharp cựu Tư lệnh Mỹ
tại Thái bình dương công bố bản phúc trình 347 trang về cuộc chiến Việt
Nam trong 4 năm chỉ huy. Các Tướng nhấn mạnh sự bó tay của Bộ tư lệnh
Mỹ trước chính sách chiến tranh hạn chế của TT Johnson và sự cấm đánh
qua Mên và Lào.
Ngày
27/4/1969 Ðô đốc Grant Sharp, cựu Tư lệnh Mỹ tại Thái Bình Dương, đăng
báo công kích cựu bộ trưởng Quốc Phòng McNamara vì đã ngăn cản không cho
oanh tạc để phá hủy các cơ sở và tiềm lực kinh tế Bắc Việt mà chỉ cho
ngăn
chận sự xâm nhập, nên các cuộc oanh tạc hoá ra vô hiệu.
Người
Mỹ cũng vấp phải khuyết điểm khinh địch (sous-estimé l’adversaire) y
như người Pháp trước đây. Họ tưởng có thể đè bẹp đối phương bằng sức
mạnh hỏa lực, vũ khí tối tân và đánh giá quá thấp sự yểm trợ của CS quốc
tế. Sự thực quân viện của Nga sô, Trung cộng và các nước Đông Âu không
đến nỗi tệ, từ đầu chí cuối cuộc chiến họ đã giúp Hà Nội (20)
Tổng cộng 2 triệu 362 ngàn tấn hàng hậu cần và vũ
khí.
Về
chi tiết: 3 triệu 600 ngàn khẩu súng bộ binh; 65,626 súng chống xe
tăng; 27,960 khẩu súng cối; 2, 430 khẩu pháo hỏa
tiễn; 2,165 khẩu đại bác; 3,229 khẩu cao xạ; 19,836 hỏa tiễn phòng
không; 2,209 xe tăng, thiết giáp; 458 máy bay chiến đấu; 82 tầu hải
quân; 148 tầu vận tải….
Đầu thập niên 70, người Mỹ đã nhìn nhận phòng không BV mạnh nhất thế giới hồi đó.
Trong
số những nguyên nhân gây thất bại, Tướng Navarre kể thêm: Chính phủ đã
để cho quân đội bị đánh sau lưng, dễ dãi với bọn chủ bại, cho báo chí
được quyền bất khả xâm phạm, báo chí biến thành một công ty làm suy yếu
tinh thần
quốc gia và cung cấp tin cho địch, khuyến khích che chở những lời vu
cáo làm mất tinh thần quân đội. Đó là những kinh nghiệm xương máu của
Pháp nhưng người Mỹ đã chẳng hề quan tâm để rồi cuộc chiến tại đất nhà
đã làm sụp đổ hầu hết mọi nỗ lực.
Chiến
sự ác liệt tại VN đã được các phóng viên quay phim, chụp hình đem về Mỹ
vài ngày sau đó đưa vào các chương trình TV. Phóng viên, ký giả được tự
do ra mặt trận quay phim, viết bài chống chiến tranh không bị kiểm
duyệt đã thổi phồng phong trào phản chiến lên cao. Chính phủ đã quá dễ
dãi, đó là một lỗi lầm tai hại.
Một
người đã thất bại ê chề như McNamara không thể dậy bài học cho người
khác, ông chỉ có thể rút kinh nghiệm cho chính ông hơn là cho bất cứ ai.
McNamara viết In Retrospect, The Tragedy and Lessons of Vietnam cũng như Navarre với Agonie de l’indochine mục
đích để bào chữa cho sự thất bại của mình. So với Navarre, McNamara
không có lý do để bào chữa, Navarre đã không được chính phủ Pháp yểm trợ
đầy đủ, trong khi McNamara có sự ủng hộ tích cực của Quốc hội và
người dân, ông đã nắm trong tay hơn nửa triệu quân nhưng đã hoàn toàn
thất
bại.
Nixon
tiếp tục lãnh đạo cuộc chiến của Hoa Kỳ tại VN, Johnson-McNamara đã để
lại cho ông một gia tài đổ nát. Khi Nixon thay thế Johnson năm 1969 thì
tỷ lệ chống chiến tranh đã lên rất cao. Những năm 1969, 1970 biểu tình
bạo động, đổ máu bắt đầu.
Nixon
vẫn tin vào thuyết Domino và lý luận sau khi mất VN, Hoa Kỳ mất nhiều
nước khác: Mên, Lào, Mozambique 1975, Angola 1976, Ethiopia 1977, South
Yemen 1978, Nicaragua 1979.
Năm
1969 khi thực hiện rút quân VN hóa chiến tranh, Nixon chủ trương không
can thiệp, nhưng nay 1985 ông trở lại chính sách này của Hoa Kỳ. Ông
cho rằng “cô lập” không can thiệp sẽ khiến Hoa kỳ mất quyền lợi
kinh tế, chính trị, Mỹ vẫn phải tiếp tục can thiệp đừng vì bóng ma
chiến tranh VN ám ảnh mà bỏ cuộc. Nay Sô viết nhúng tay xúi dục, yểm trợ
bọn phiến loạn cướp chính quyền những nước không CS. Chiến tranh sẽ sẩy
ra tại những nước xa xôi như trong Thế giới Thứ ba, ta phải tự gột bỏ
những ám ảnh bệnh hoạn hiện tượng Việt Nam nếu muốn tránh những thất bại
khác của Thế chiến Thứ ba. Nixon nói từ 1974 Nga đã chiếm được chín
nước mà không phải đem quân sang, từ cuộc chiến Triều Tiên, Sô viết đã
tiến tới biên giới nhiều nước.
Nixon
chủ trương tiếp tục can thiệp vào các nước Thế giới Thứ ba nhưng theo
đường lối Sô viết (21), chỉ gửi viện trợ vũ khí mà không đem quân sang,
bất đắc dĩ lắm mới phải dùng vũ lực. Hoa kỳ sẽ viện trợ kinh tế quân sự
cho nước bị tấn công ngang với viện trợ của Sô viết cho bọn phản loạn.
Lời
nói của Nixon không đúng so với thực tế chiến trường, như ta
thấy trong cuộc chiến tranhVN, Hoa kỳ không viện trợ cho VNCH đủ hỏa
lực có thể tự vệ được. Năm 1972 nếu không có yểm trợ của B-52 , miền nam
VN chưa chắc đã giữ được Quảng trị, Kontum, Bình Long, chính ông Cao
Văn Viên đã công nhận như thế (22). Hoa Kỳ không bao giờ muốn cho VNCH
mạnh có thể vì sợ miền Nam đánh ra Bắc, họ chỉ muốn miền Nam yếu hơn BV
và cần phải yểm trợ bằng B-52 để tạo thế cân bằng. Ngay như năm 1950
Hoa Kỳ cũng không viện trợ đầy đủ cho Nam Hàn bằng Nga sô cho Bắc Hàn
nên miền Bắc với dân số ít hơn đã tràn xuống xâm lược miền Nam và chính
Hoa Kỳ cũng đã phải đưa đại binh vào cứu nguy.
Nixon
nói Hoa Kỳ chỉ viện trợ quân sự vũ khí, nước bị tấn công phải chịu
trách nhiệm cung cấp nhân lực tự vệ. Chính phủ VNCH rất muốn họ cung
cấp quân viện đầy đủ để tự chiến đấu nhưng người Mỹ lại muốn đích thân
đưa quân vào tham chiến như tại Afghanistan năm 2001 và Iraq năm 2003.
Họ không bao giờ làm được như Sô Viết đứng ngoài giựt giây.
Cũng
như McNamara và nhiều tác giả Mỹ, Nixon nói người Việt Nam mặc dù đã
được Hoa Kỳ trang bị, huấn luyện nhưng cũng không tự vệ được mà phải nhờ
vào sự chiến đấu của quân đội Mỹ, điều này sai
lầm tận gốc rễ. Người Mỹ viện trợ cho VN ít hơn nhiều so với CS quốc tế
trang bị cho Hà Nội, từ 1960 cho tới 1975 miền nam luôn yếu hơn CS .
Năm 1975 trong khi VNCH bị cắt viện trợ tới xương tủy, tháng 4 chỉ còn
đủ đạn đánh hai tuần (23), Hà Nội đã được Sô Viết cho tăng viện trợ gấp
bốn lần từ cuối năm 1974 (24).
TT
Nixon (25), ông Cao Văn Viên cũng đều đã nói đáng lý phải Việt Nam hóa
chiến tranh từ 1965. Thay vì đưa quân vào chiến đấu, Hoa kỳ chỉ cần viện
trợ quân sự đầy đủ cho miền nam VN, quân đội VNCH thừa sức bẻ gẫy mọi
cuộc tấn công qui mô của Hà Nội.
Nếu Hoa kỳ làm được như thế thì đã không có hơn 58,000 lính Mỹ bị thiệt
mạng, không có phong trào phản chiến đưa tới sụp đổ tan tành.
Nhưng
không bao giờ người Mỹ làm được như Sô Viết mà họ chỉ muốn đưa đại binh
vào can thiệp để rồi như ta đã thấy khi chiến sự kéo dài, chết người,
tốn của thì họ lại than thở đó là cuộc chiến sai lầm như tại Việt Nam,
Afghanistan và Iraq.
© Trọng
Đạt
© Đàn Chim Việt
No comments:
Post a Comment